TẬP TỤC, LỄ HỘI ĐẤT QUẢNG – PHẦN THỨ HAI – Tiết 6

344

PHẦN THỨ HAI – TIẾT 6

 

 Tập tục trong sinh hoạt xã hội

  Vía miếu Thất vị

          Miếu thất vị được cho là nơi thờ bảy vị thần tượng trưng bằng bảy tảng đá được cho là linh ứng luôn cứu độ chúng sinh. Hàng năm tại làng La Qua tổ chức ba lần tế lễ, hai lần tế xuân và một lần thu, trong đó lớn nhất là lễ vía mồng 10 tháng 3 âm lịch.

          Lễ được tiến hành tại miếu Thất vị, trước khi cử lễ vía bảy vị thần có lễ rước sắc. Đây là lễ rước các sắc do các đời vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Duy Tân, Thành Thái, Khải Định ban cho thần. Sắc được rước từ nhà ông Thủ sắc về đình làng.

          Tục rước sắc tại Quảng Nam ngày trước thường được tổ chức theo thứ tự: đi đầu có bản hiệu màu đỏ ghi hai chữ túc tịnh màu trắng cho người dân giữ im lặng khi sắc được rước đi ngang qua. Kế đến, một đội cờ ngũ sắc vuông (có nơi là cờ xéo) lớn, đến đội chinh cổ , đội nhạc bát âm (nếu có). Tất cả ăn mặc đồng phục, áo dài đen hoặc xanh khăn nhiễu. Tiếp theo là đội hình 12 nam, 12 nữ (có nơi không cầu kỳ đủ số lượng mà chọn chừng 2 nam, 2 nữ là đủ) gọi là học trò gia lễ đi hàng đôi, áo dài tề chỉnh. Đôi khi ăn mặc áo màu sặc sỡ, nữ lưng thắt lụa xanh, nam thắt lụa vàng, chân quấn xà cạp, thắt giây màu đỏ. Tiếp theo là kiệu sắc rước do bốn thanh niên ăn vận áo dài khăn đóng chỉnh tề khiêng đi. Hai bên có 2 thanh niên cầm lọng theo hầu.Theo sau là các vị đại diện chư phái tộc trong làng và các vị chức sắc, hương lý, hào mục, các phẩm trật trong làng đi theo thứ tự từ cao đến thấp. Họ mặc áo dài khăn đóng, chân đi giày Tây hoặc giày hạ, hoặc guốc mộc xà lan. Hai bên đường cắm hai hàng cờ làng, xéo đuôi nheo. Trên đường đi rước sắc trống lệnh điểm nhịp thường xuyên. Các cây cờ làng đi chen kẽ trong hàng. Cờ làng hình tam giác viền xanh, đỏ, vàng có tua. Xa trông màu sắc rực rỡ ẩn hiện dưới lũy tre làng khi đoàn rước sắc ngang qua cánh đồng lúa đang độ làm đòng, nhìn xa về phía tây là dãy Trường Sơn mờ ảo. Tất cả như một bức tranh làng quê thanh bình trong ngày đình đám. Tiếng trống, tiếng chiêng, kèn sáo vang lừng, tạo cho cuộc rước sắc tưng bừng độc đáo của thời lễ hội xưa.

          Đến trước từ đường nhà Thủ sắc, vị chủ tế chỉnh tề lại áo dài đỏ, chít khăn điều, từ ngoài sân khoan thai tiến vào nhà Thủ sắc, sau khi cử lễ xong hai tay nâng hòm sắc cung kính trao cho vị đứng đầu làng mang ra đặt vào kiệu. Tiếng chiêng trống lại vang lên thúc giục, đám rước thong thả quay về đình làng, nơi đã chuẩn bị đón sắc phong thần. Khi đoàn về đến đình, các vị chức sắc trong làng bước ra nghinh đón, rước vào đặt hòm sắc lên bàn hương án đình.

          Lễ vía Thất vị tại La Qua trước kia và cả ngày nay đều trên tinh thần tưởng nhớ đến các vị thần đã ra ân giúp đỡ dân làng có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc, trong làm ăn nông tang, cày cấy thuận lợi vũ thuận phong điều, nhà nhà no đủ, tránh được thiên tai, địch họa. 

   Tục thờ Thành hoàng bổn xứ

Thành hoàng là cách gọi tắt của Thành hoàng bổn xứ thổ thần bảo an chính trực. Trên đất Quảng làng nào cũng có tục thờ một vị Thành hoàng làng. Thành hoàng có thể là người thật việc thật, có công với làng nước được vua phong thần, nhưng có vị gọi theo tước hiệu chung là thượng đẳng thần. Đó là các thiên thần. Tuy nhiên nhiều làng trên đất Quảng Nam đều thờ vị có công khai cư, khai canh lập nên làng, là người có công khai phá dựng làng, quy dân lập ấp như vị Thành hoàng làng Đà Sơn, làng Phước Sơn (Phước Thuận), làng Quá giáng…là những vị quan chức có công với làng, sau khi chết được vua phong thần, nhân dân thờ kính xem là Thành hoàng làng. Đó là các nhân thần.

          Tục thờ thần Thành hoàng có từ thời “Giặc Tàu đô hộ, tức thời kỳ An Nam đô hộ phủ” (thế kỷ thứ IX). Đến thời kỳ nhà Nguyễn tục thờ thần Thành hoàng bắt rễ sâu vào cộng đồng làng và được thờ tại miễu Thành hoàng hoặc tại đình làng. Tại Quảng Nam Thành hoàng làng thường được thờ tại đình làng mà ít thờ tại miễu xóm, bởi miễu xóm được cho là nơi thờ các loại cô hồn và ma quỷ. Ở kinh đô Huế, Thành hoàng được vua phong là Thượng đẳng thần, ở cấp tỉnh, phủ phong là Trung đẳng thần còn ở làng xã thì được phong là Hạ đẳng thần, tuy nhiên có địa phương gọi chung là linh phò chi thần. Thành hoàng có chức năng ngự trị tại mỗi làng, được nhân dân trong làng thờ cúng hàng năm trong lễ cầu an. Thành hoàng thay mặt nhà vua cai quản nhân dân, bảo vệ, giúp đỡ dân chúng bốn mùa no đủ. Đây là lễ cúng lớn nhất của mỗi làng trong điều kiện kinh tế nông nghiệp lúa nước. Tục cúng Thành hoàng xuất phát từ tín ngưỡng dân gian và do nhu cầu tâm linh của người dân khi mà những thành công, thất bại của người dân trong làng đều dựa vào yếu tố thần quyền và do các thần linh chi phối. Xưa nay việc làng tại đình làng thường là tế tự thần Thành hoàng bảo an chính trực, bổn xứ thổ thần[1] của làng (cũng có làng có thờ Phật) và  Thổ địa  xứ đất. Chẳng hạn xóm Đồng Bé, Đồng Lành của làng Phong Lệ xưa thuộc xứ đất Đà Ly xứ, hay làng Đông Phước có ba xóm: Đông Thạnh thuộc xứ đất Gò Lăng xứ, xóm Tây Phước thuộc xứ đất Cây Trao xứ và xóm Phước Thọ thuộc xứ đất Khe Sứ xứ. Theo quan niệm dân gian mỗi xứ đất có một vị Thổ thần trông coi, quản chưởng. Do đó, tục người Quảng có Nhứt thâu nhà nhì ra vườn là có ý quan niệm rằng mỗi khu vườn có một Thổ địa trông coi bổn trạch, không cho ai đụng đến khuôn viên đã được giao cho trông giữ. Theo đó xưa kia, người dân đất Quảng xem việc thu nhỏ nhà và nới rộng khu vườn ra là hệ trọng, không nên, sẽ bị Thổ địa trách phạt. Quan niệm của người dân, “Thành hoàng là vị thần  biểu hiện sinh động của lịch sử –  văn hoá – phong tục –  tập quán của làng. Đình còn là nơi thể hiện tính siêu nhiên, tâm linh của dân làng, thể hiện mối liên lạc vô hình giữa dân làng với các lực lượng thần linh được thờ tại đình, khiến cho hương thôn thành một đoàn thể có tổ chức và có hệ thống chặt chẽ”. Chính đó, dân làng tập trung tại đình làng để cúng thần, kính trọng thần, cầu thần giúp đỡ như Nguyễn Phục [2] được dân làng Lỗ Giáng tôn thành thần Thành hoàng của làng (quận Cẩm Lệ)… Thổ địa là vị thần chưởng xứ sở đất đai, sông núi, gò đồi, coi ngó cương vực của làng. Ngoài vị Thành hoàng được thờ tại đình, còn các vị thần khác có công lập nên làng, vị tiền hiền được phong thần như tộc Phạm ở Hương Quế (huyện Quế Sơn); hoặc đình thờ các chư phái tộc như “tứ Lê ngũ Ngô tịnh hữu Phùng, Ông, Nguyễn, Võ, Bùi nhị Phan, Hồ” ở làng Phong Lệ (huyện Hoà Vang); họ Võ ở làng Đông Phước (quận Cẩm Lệ), nhà thờ Ngũ xã (ở Trà Kiệu); đình làng Hải Châu (ở Đà Nẵng); đình làng Hoà Mỹ (quận Liên Chiểu); đình làng Bồ Bản (Hoà Vang) ngoài thờ vị Thành hoàng bổn xứ, còn thờ các vị tiền hiền họ Trần, Hồ, Trương, Nguyễn… thờ hậu hiền và các chư vị tiền liệt khác. Đình làng Tuý Loan còn thờ các vị tiền hiền họ Đặng, Lâm, Nguyễn, Trần Lê… Sau lễ, người dân trong làng tập trung bàn những công việc có liên quan đến làng.

Một bài xướng trong nghi tiết lễ cúng đình thường có thể được xướng như sau:

-Khởi chinh cổ (chiêng trống nổi lên, trống lịnh đánh trước một hồi, sau đó tiếp là chiêng, trống)

-Nhạc sinh tấu nhạc (đội nhạc bát âm khởi tấu bản nghinh thần)

-Củ soát tế vật (kiểm soát lễ vật dâng cúng, nếu heo phải đủ cả bộ lòng, mỗi thứ một ít, gà cũng phải vậy)

-Ế mao huyết (nếu có)

-Chấp sự giả các tư kỳ sự

-Tế quan dữ, chấp sự quan, các nghệ quán tẩy sở (các chủ lễ rửa tay, rửa mặt)

-Quán tẩy

-Thuế cân

-Bồi tế quan tựu vị (các vị bồi bái vào nơi hành lễ)

-Tế quan tựu vị (vị chủ bái)

-Thượng hương( dâng hương, hoặc trầm lên chánh điện)

-Nghinh thần cúc cung bái

-Bái

-Hưng

-Bình thân, hành sơ hiến lễ

-Nghệ tửu tôn sở (mang rượu vào, do đội học trò lễ )

-Tư tổn giả cử mịch (chén rượu và dĩa)

-Chước tửu (rót rượu tuần đầu)

-(Nghệ thần Thành hoàng bổn xứ……thần)

-Quỳ, tiến tước

-Hiến tước

-Phủ phục

Hưng

-Bình thân, phục vị

-Độc chúc (đọc bài văn tế lễ)

-Nghệ độc chúc vị

-Giai quì

-Chuyển chúc

-Độc chúc

-Phủ phục

-Hưng

-Bái

-Hưng

-Bình thân, phục vị

-Hành á hiến lễ (lễ lần hai)

-Hành chung hiến lễ (lễ lần ba)

-Ẩm phúc (uống rượu thần ban cho)

-Nghệ ẩm phúc vị

-Quì

-Ẩm phúc

-Phủ phục

-Lễ từ cúc cung, bái

-Bình thân

-Tiểu khước (các chư phái tộc trong làng vào bái thần)

-Phần chúc (đốt bài văn và các loại giấy vàng mã)

-Điểm trà

-Lễ tất.[3]

Trong suốt quá trình cử lễ, chinh cổ nhạc được khởi lên liên tục, đều đặn, riêng thời gian độc chúc chỉ còn mỗi một trống lịnh (cổ) điểm nhịp mà thôi. Cùng với lễ tất, chinh cổ nhạc và bát âm khởi lên một hồi thật dài rồi ngừng hẳn. Không gian đình làng giản ra, nhẹ hẫng.

Kèm theo lễ là nhịp chiêng trống cổ truyền, đôi khi có nhạc cổ bát âm. Nay thì nhạc bát âm không còn  thể hiện đủ bộ trong các lễ: quan,[4] hôn, tang, tế nữa. Trong quá trình thực hiện các loại nhạc trong bộ chiêng trống, khi đánh lên không chồng âm, thực hiện tự do. Một hồi chiêng trống dài hay ngắn còn tuỳ người khởi cổ (trống lịnh). Thường trong một buổi tế lễ, chiêng trống đánh theo tiết điệu đều của từng nhạc cụ, tất cả tạo nên cao trào ngay từ đầu, sau đấy thong thả theo nhịp chen kẽ các loại nhạc cụ. Trước khi chấm dứt lại khởi chiêng trống lên cao trào và dứt hẳn. Âm thanh buồn, vui, bi ai, hoành tráng còn tuỳ thuộc vào ý nguyện của nhiều người và vào mỗi loại hình lễ lạc và nhịp chiêng dài ngắn, nhỏ lớn ngân trong tiếng rung.  

  Tục cúng miễu xóm (cúng âm linh, cô hồn)

Miễu xóm, nơi tế tự những người phiêu dạt khắp nơi vì nhiều lý do khác nhau mà chết, vong linh không người hương khói, phụng thờ thường được gọi là âm linh. Những người này sau khi chết “hồn ma bóng quế dật dờ” dân gian quan niệm rằng là những cô hồn, theo sau là những cô hồn, có người đã hoá thành ma, quỷ … nên hung dữ. Tất cả được tập trung thờ vọng, cúng tại miễu xóm. Hằng năm có một buổi cho lễ tế nầy, thường là thời gian áp Tết, sau tu tảo phần mộ của các tộc họ trong làng. Những ngôi mộ nào sau đợt tu tảo xong không có người chăm sóc đều gọi chung là mả âm linh. Nguyện vọng chung của dân làng là cầu xin lực lượng này giúp cho xóm được yên ổn mọi bề, làm ăn, nông tang cày cấy được mùa, no đủ, đẩy lùi các loại bệnh tật, ôn dịch làm thiệt hại đến xóm.

         Cúng ở miễu xóm nếu gọt bỏ biểu tượng tập trung của sự thờ cúng ma quỷ thì vào thời kỳ trước đây vẫn hàm chứa một khía cạnh nhân đạo sâu sắc. Ở miễu, nhân dân biểu lộ mặt tình cảm, lòng thành kính đối với tất cả những vị thánh thần được phong tước hiệu đến những kẻ vô danh, là những liệt sĩ đã hy sinh nơi chiến trận cho đến những người rủi ro ở xó chợ đầu đường.

        Bài trí cúng cô hồn ngoài sân, với mỗi gia đình, thường trong những lần giỗ kỵ tiên tổ đều có một cổ bàn soạn lễ vật cúng cô hồn, thổ địa gọi chung là mâm cúng đất trước khi tiến hành lễ chánh kỵ người thân.

Theo tục, bàn dụng cúng dùng hai cái, bàn ngoài kê cao lên một bậc, đặt các lễ nghi hương, đăng. Lễ cúng bày soạn nơi bàn cao hơn là đồ chay gồm chè xôi, hai ly nước rót chừng 2 phần ly gọi là thanh chước và rượu.  Đây là bàn thờ Tiêu điện đại sĩ và nhiều vị thần khác, có thần đất người Hoa, thần đất trấn ngũ phương, thần đất trấn giữ long mạch, thần đất là Chủ ngung và các loại thần khác đi kèm.

Bàn thấp hơn, cũng có hương đăng, thanh chước kèm thêm các loại giấy binh, giấy đất, diêm mễ, hột nổ đỏ vàng xanh, một đĩa trầu cau và rượu (mâm dưới là bộ lạ). Lễ cúng gồm tô cháo trắng lạc, một con gà luộc, cơm, canh, các loại thực phẩm thổ nghi tại địa phương. (Có gì bày lên mâm cúng nấy).

        Sau khi chước tửu lần thứ ba, chủ tế mang gạo muối và hột nổ ra bìa sân vải bốn hướng cho chim chóc các loại theo đó kiếm ăn. Xong đốt giấy hoá vàng.

Theo tập tục quan niệm rằng sau khi đốt giấy sẽ hoá thành tiền, vàng, bạc… cho các cô hồn sử dụng. Đây là hình thức ảnh hưởng của đạo Phật ngoài lễ cúng tổ tiên tại bàn thờ trong nhà, còn dụng bàn cúng âm linh, cô hồn tức cúng những người chết đường, chết trận, chết bất đắc kỳ tử không nơi nương tựa.

        Trong khi hành lễ chủ lễ có đọc bài văn cúng. Sau đây là một trong nhiều bài sử dụng tại Tiên Phước, Quảng Nam:

        Cung nghinh đức ông Tiêu điện đại sĩ

        Khẩu quỷ vương bà la môn cai quản tam thập loại cô hồn, thất thập nhị nghiệp đẳng chúng cô hồn, đẳng chúng lục đạo tử sanh cô hồn;

        Thiên lực sĩ vạn vạn tinh binh, nội gia viên trạch, ngoại gia viên linh, mồ hoang mả lạc, , hữu danh thương vong đẳng chúng;

        Trùng trùng hữu danh vô vị, hữu vị vô danh, đầu ngõ xó rào, đầu ghềnh cuối bãi, đầu núi góc non, người bói chẳng ra người, khoa chẳng thấy tài cao;

        Cô hồn tử trận, thuỷ vận quy lai, hoặc gái hoặc trai viễn cành tử lộ;

        Thương nhân buôn bán thác ở Hải Hà, bị phản phong ba thuyền bè tan xác; phách lạc nơi nào, hoặc phải lao, phải tên, phải súng, phải cướp, phải đạn;

        Hữu sắc bệnh hành, cấp tính cô hồn, nội cuộc âm binh, ngoại cuộc quy tánh;

        Bổn xứ bổn cuộc, chư vị nam nhân chiến cuộc, bổn xứ  bị thuỷ tai nhi tử; bổn xứ bổn cuộc chư vị bất đắc kỳ tử;

        Oan hồn nội khuôn viên chư vị  mộ phần vô chủ;

        Thương những kẻ sông suối hại thân, người sa cội sa cành, kẻ bị hùm, người bị rắn cắn, người bị trâu húc, voi chà, tre xé, mọi đâm;

        Có kẻ vô danh sút sổ, cô quả tiệt tự, vô huynh vô đệ, vô tử vô tôn, không ai nương tựa; hoặc kẻ tỳ xướng hát ca;

Kẻ quét chợ thai sanh, người đầu nhành thắt cổ, kẻ sa lỗ, sa hang, người nằm đồng thác đói, kẻ thác non, người thác núi thác sông, kẻ thác đông thác tây, thác nam, thác bắc, kẻ bị thuỷ hoạ, người bị hoả thiêu.

Tín chủ tâm thành hào soạn kim ngân, hương đăng, minh y, diêm mễ tạp bàn, dụng lễ tạ cô bác khuôn viên nội gia tín chủ (đọc tên gia chủ vào đây) thuộc xứ (đọc địa danh xứ đất vào đây).

Lễ đúng ba tuần đã thành, trầu nước đã xong cung thỉnh cô bác lãnh tài kỳ vật quy hồi hải ngoại. Tại đông quy đông, tại tây quy tây, tại nam quy nam, tại bắc quy bắc, tại miễu quy miễu.

Phục vọng![5]

Khi cúng, tế ở miễu, nhân dân có đọc bài văn tế có khi bằng chữ Hán có lúc bằng chữ Nôm thể hiện sự tôn trọng, cảm thông đầy tinh thần nhân đạo. Ví dụ ở vùng Hòa Vang :

Hỡi ôi !

Hồn phách phiêu lưu, mồ phần thất lạc

Cõi trời nam xây đắp bước văn vinh

Chốn âm cảnh ngậm ngùi hồn xao xác

Nhớ âm linh xưa

Cũng lịch duyệt tôn ti, cũng con hồng cháu lạc

Nay khói lanh hương tàn, bởi con tạo xuôi nên phận bạc

Cũng cành vàng lá ngọc, cũng thế hệ trâm anh

Nay cỏ rậm mồ hoang, tại số phận cam đành ngơ ngác

Vì Tổ quốc giang sơn ra gánh vác, mà phải đánh khứ lý li hương

Nơi trận địa chốn biên cương, vào đạn ra tên gặp bất hạnh cam đành chịu chết

Cũng có kẻ khoa trường tráo chác, thất thanh danh mà hồn lạc phách sa

Cũng có người giông tố phong ba, không đủ sức nên hồn xiêu phách lạc

Cũng nhiều người bị chiến tranh hành phạt, bỏ quê hương đi tự vận liều thân

Bị hung niên cơ vận phân vân, qua không khỏi trong cơn đói khát

Nào mấy kẻ lên ghềnh xuống thác, bị chìm thuyền mà hồn xuống âm ti

Nào mấy người non lảnh rừng sâu, gặp thú dữ thủ tiêu thân xác

Nào những kẻ thân đơn phận bạc, lửa vô tình văng xuống cháy lan

Tự nhiên mà nổi tiếng nổ vang, vì phát súng mà hồn bay thịt nát

Thương những kẻ tham tiền tham bạc, vì bán buôn mà lặn lội với Đê, Tây

Gặp đứa hung tàn, bị hãm hiếp mà hồn lìa mình hạc 

Úy thôi thôi !

Kể sao xiết phách lạc hồn xiêu từ xưa nhẩm đến

Kể sao rồi cỏ rậm mồ hoang trên đài dưới cát

Nay kỷ niệm kính dâng lễ bạc, nguyện âm linh chứng ngưỡng tâm thành

Hộ toàn thôn đắc lộc đắc danh, phò bổn xã vĩnh an vĩnh lạc.

         Ví dụ ở vùng Đại Lộc (Đại Nghĩa)

Hỡi ôi ! dòng dõi ở đâu, mả mồ ở đó

Ngoài nội trống mình nằm quạnh quẽ tiết thanh minh không kẻ viếng thăm

Giữa đồng không hồn ẩn mịt mờ, ngày kỵ lạc không người quan võ

Người xưa thế, người nay cũng thế, cũng ở trong đất rộng trời xanh

Người sống đây, người thác cũng nằm đây, cũng một giống da vàng máu đỏ.

Thuở còn sống biết bao là tay giỏi, tranh đua nơi bể thánh rừng nho

Khi thác rồi còn một nắm xương tàn, khuây khỏa hết nghề văn, nghiệp võ

Nào là người lý bốc nho y

Nào những kẻ sĩ nông công cổ

Cũng có kẻ nhà cũng giàu, quan cũng lớn, vì cháu con lưu lạc để nồi hương bát nước nổi tê tề.

Cũng có người xông lũy Bắc, đánh thành Nam, sa vó ngựa bị tên bay, hồn tan tác luồn mây chặn gió

Cũng có kẻ bán nguồn trên buôn biển dưới, gãy buồm loan, rơi chèo quế,  gởi thân nơi góc biển chân trời

Cũng có người già yếu chẳng ai nuôi, chịu không nổi lúc cơ hàn, bỏ thể phách rồi nằm nơi khoáng khổ

Cũng có kẻ nhâm thần không ai chủ, ngày khai hoa nở nhụy, xác chôn nơi cấm rậm, gò hoang.

Cũng có người lụt lội chẳng ai coi, để chảy nằm trôi lấp loáng dưới trạnh cây lửa giáo

Hồn thơ thẩn nhà chay tiêu đám, biết nhờ ai xuân tế thu thường

Xác lấp vùi lách phủ lau tre, không có kẻ tảo tu phần mộ

Dãy đắp vắng, đúc xây cũng vắng, mả vô nhơn trông thấy cũng đau lòng.

Trầm trà không, dưa muối cũng không, hồn thất tự thấy càng tuôn lụy đổ

Ôi thôi thôi một lát đất gọi là nghĩa trũng, đắp nền cao nơi cấm rộng, nắng mưa che ấm mát tấm thi hài

Một nén hương gọi tế cô hồn, lò sơ ướp vàng hương xông mặn lạt

Đám quay qua ngày chạp giỗ, hoặc ở chốn bồng lai hải đảo thấy cành hương ngọn khói, gắn về đây chứng chút tâm tình

Hoặc chơi miền bích thủy thương ngôn, nghe trống điểm chuông rung về án, thượng hưởng hôn bàn lễ sáo…[6] 

Có thể thấy rằng nếu những bài văn tế của Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Du như “Văn tế nghĩa sĩ, văn tế cô hồn, văn tế thập loại chúng sinh”… đã đi vào lịch sử văn học Việt Nam thì những bài văn tế âm linh, cô hồn mộc mạc nôm na trên đây khi đọc lên trong tiếng trống điểm, chuông rung cũng đã làm xao động biết bao tấm lòng của những người dân trong làng, xóm mỗi khi đứng trước ngôi miễu thân quen.

Để chuẩn bị kết thúc một năm nhọc nhằn, lăn lộn mưu kế sinh nhai, đón một năm mới đến với bao hy vọng đợi chờ những ngày cuối đông, trước miễu xóm dưới cây đa râm bóng hay dưới tán cây bàng lá rụng chờ xuân ai cũng cảm thấy ở đó có những người thân quen ruột thịt của mình, ai cũng thấy dấy lên lòng thương xót vô bờ đối với con người và từ đó mà bỏ qua  những tị hiềm đời thường, xích lại gần nhau hơn tí nữa, giúp đỡ nhau trong cuộc sống hàng ngày.

   Tục cúng Tiền hiền

Tại Quảng Nam – Đà Nẵng, ngay sau khi cư dân các giòng họ khai phá xong đất đai, ổn định cuộc sống, để nhớ ơn những người đi trước đặt chân vào một vùng đất lạ lùng mà khi ấy: Đến đây xứ sở lạ lùng, Con chim kêu cũng sợ con cá vùng cũng kinh mới thấy hết được những gian nan từ thuở mang gươm đi mở nước là thế nào! Do vậy, để tưởng nhớ đến những vị tiền liệt đã có công đi tiên phong khai sơn phá thạch, có công khai khẩn khai cư, quy dân lập ấp, thiết lập chính quyền làng bộ phát triển, các giòng họ tại đất Quảng xưa nay vẫn duy trì ngày giỗ kỵ vị tiền hiền của làng mình.

          Tại Quảng Nam, đa số các làng được hình thành tập trung và có quy mô gắn liền với tên tuổi của những cư dân tiên phong Nam tiến. Nhanh và nhiều nhất là từ sau cuộc di dân Nam tiến của tiền nhân theo chủ trương mở rộng đất đai về phương Nam dưới triều Lê Thánh Tông (1470).

          Ngày từ thời nhà Hồ đã có người Việt vào định cư tại Quảng Nam, lập nên làng bộ, phát triển dài lâu. Cụ Phạm Nhử DựcNăm Tân Tỵ (1401) Ngài (Phạm Nhử Dực), được chiếu chỉ của Hồ Hán Thương (Thiệu Thành thứ 2) khiến di dân vào đất mới chiếm để thành lập cơ chỉ của người Việt và phong ngài làm Chánh đô ân vũ sứ. Từ đấy cụ Phạm Nhử Dực lưu lại đất Quảng Nam, thực hiện chương trình cải cách nông thôn. ..Ngài mất ngày mồng bốn tháng 10 năm Kỷ sửu… Về sau, chúa Nguyễn Phúc Tần tưởng niệm công đức ngài cho lập một sở tự để phụng sự Ngài và Tặng phong Phủ quốc công Nam dinh An vũ trấn khai vận sự thạnh truyền hậu quân…Thượng tướng Mô vỉ Hồng Huân Dực Nghĩa hầu, Phủ quân Thượng đẳng tối linh thầnmộ táng tại làng Đồng Tràm, xã Phú Phong, quận Quế Sơn[7]

           Bảo An (Điện Bàn) ghi lại công lao khó nhọc của tiền nhân trong những ngày đầu khai khẩn đất đai: “… Thấy xứ Hoà Đa đất không rộng, nước không lành bèn bàn với các ông tộc Phan, Ngô: chúng ta đã quyết vì nước quên thân, theo vua đến đây là vì sự nghiệp khai phá cho muôn đời con cháu mai sau, lẽ nào ta không tính kế lâu dài? Bèn dời đến đất nầy (Bảo An), thấy cây cỏ tốt tươi, đất ruộng phì nhiêu, rủ nhau ngày vào rừng đốn chặt, đêm leo lên cây để ngủ, đồng tâm hiệp lực, khai khẩn để ở…[8].

           Hoặc từ thời nhà Trần đã có các tộc họ tiền hiền mở rộng đất đai, khai cư khai canh một vùng rộng lớn như tộc Phan tại Đà Sơn (nay thuộc phường Hoà Khánh Nam, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng).  Ông (cao tổ tộc Phan) lãnh chỉ đi chiêu dụ, quan dân các châu động đều quy thuận. Ông trở về xin (vua Trần) cấp trâu, bò, dụng cụ làm nông đồng thời xin một số dân Giao chỉ đã thuần thục nghề nông và biết một ít chữ nghĩa. Vua nhà Trần cho ông trông coi các xứ, thiết lập trang trại chia nhau để ở, dạy cho thổ dân chúng ta học hành và cày cấy. Ông đổi các chức châu trưởng, động[9] trưởng thành chức lệnh đoàn quân, đặt các chức động trưởng, lại trưởng thành các chức cai trại tri thâu. Mỗi trại dựng kho để chứa thóc dùng vào việc chi cấp cho quan, dân và chứa các thứ như thóc giống và nông cụ… Về dân số, thì dân Giao chỉ và địa phương cùng chung một ngạch tịch, về ruộng đất thì chia ra các loại công điền, tư điền đều chia ra để canh tác… Trong số dân địa phương, có người còn chấp mê tập tục cũ, không thuận theo sự khai hoá ấy, thì chia ra ở riêng thôn sách có các phu trưởng kiểm tra…”[10]

          Năm 1470 sau khi bình định được biên cương dài đến đèo Cả, một số tộc họ theo chỉ dụ vua Lê Thánh Tông di cư vào Nam theo chủ trương mở đất. Họ Võ làng Đông Phước Hoà Vang đã đến vùng đất chân núi Phước Tường quy dân lập nên làng bộ. Trong gia phả có ghi: “Triệu tổ Võ Văn Nghĩa tự Bắc nhi Nam lai, khai sáng tiền triều Hồng Đức, thọ phò tá trấn Nam dinh. Nguyên phong: “Đặc tấn phụ quốc, húc võ trợ oai”, gia tặng: “Nẩm trứ linh ứng vi Dực bảo trung hưng linh phò chi thần” và khi Ngài mất tặng phong là “Tập phước hầu chi thần”. Triệu tổ sinh năm nhâm tý (1442) tại huyện Lôi Dương, [11] tổng Kim Thạch, làng Bàn Thạch, tỉnh Thanh Hoá. Thử thời Hồng Đức thứ II, mùa xuân năm Tân mão (1471), Ngài từ Lê ba ải, tỉnh Cao Bằng, Thái Nguyên lĩnh chiếu vào Nam, mở rộng phương Nam từ Ải Vân đến đèo Cả nhất giai bình trị và đưa người con của Ngài là Võ Văn Nhân vào Nam năm 1476 (Bính thân) đời Hồng Đức thứ VII và cùng phụng chiếu chỉ lưu lại tỉnh Quảng Nam khai khẩn, khai điền, quy dân lập ấp dựng nên làng Đông Phước. Ngày 7 tháng 7 năm 1503 ngài tạ thế, mộ táng tại xứ Gò Lăng bổn xã, toạ kiền tốn [12], nhật đản [13] ngày mồng 7 tháng 7, tu tảo phần mộ ngày 1 tháng 11 hàng năm”.

          Xuất phát từ tinh thần tự nguyện cao cả như một số gia phả đã ghi chép nên việc giữ vững đất đai, làm giàu cho quê hương xứ Quảng tiến hành có tổ chức và thường xuyên.

          Từ cơ sở thực tiễn như thế, làm xuất hiện một phong tục, tập quán tốt, mang tinh thần nhân văn cao cả của những lưu dân trên đất Quảng về lễ giỗ tiền hiền tại các làng quê.

          Lễ giỗ tiền hiền được tiến hành trước hết tại nhà thờ làng (gian giữa) hoặc đình làng (gian tả) và do nhân dân trong làng tham gia dưới sự chủ trì của hội đồng chư phái tộc. Sau lễ giỗ của làng tại nhà thờ hoặc đình làng xong, tộc họ tiền hiền tiến hành giỗ lại lần nữa tại nhà thờ tộc do vị tộc trưởng chủ lễ, tham dự có các chi phái tộc. Hoặc nếu giòng họ nào không có nhà thờ riêng thì tập trung về nhà vị tộc trưởng để giỗ tiền hiền [14]. Tại buổi giỗ nhân dân trong làng nhớ ơn người đã tiên phong khai sơn phá thạch, quy dân lập ấp xây dựng nên làng. Cũng tại buổi giỗ tiền hiền, người dân trong làng còn ghi ơn các tộc họ là hậu hiền cũng đã có công trong việc khai canh khai cư, cùng với tộc họ tiền hiền chung tay xây dựng nên làng.. Ở Quảng Nam – Đà Nẵng có các tộc họ lớn như Phạm, Dương, Phan, Võ, Đỗ, Nguyễn, Lê…

          Một buổi giỗ tiền hiền không giống tế Thành hoàng làng vì đây là nhân thần (nếu được phong thần) như Phạm Nhữ Dực tại Quế Sơn, Phan Công Thiên, Võ Văn Nghĩa, Nguyễn Phục tại Hoà Vang… nên vật cúng không có hình thức tế sống mà được nấu chín như một lễ kỵ cơm của người đứng đầu giòng họ. Thường, tuỳ theo sản phẩm thổ nghi tại địa phương mà sắm sanh lễ vật. Lễ là quan trọng, dân trong làng hoặc các hậu duệ của giòng họ kiền dụng phẩm vật hương hoa trà quả, trầu, cau, rượu, kim ngân, hương đăng thanh chước thứ phẩm khác gồm thức ăn như thịt heo, gà, vịt, bò…bánh trái và các loại sản phẩm chế biến từ nguồn nguyên liệu có tại địa phương. Giỗ tiền hiền không cầu kỳ về phẩm vật. Tộc lớn đông người có lúc làm heo, bò để cúng, nếu mổ một lúc hai con thì gọi con hy, con sinh.

Lễ được tổ chức một buổi, đúng ngọ thì khởi chinh cổ nhạc và tiến hành nghi lễ cúng tế. Nếu giỗ tại đình hoặc nhà thờ làng thì chỉ có đại diện các chư phái tộc tham dự, còn giỗ tiến hành tại nhà thờ tộc hoặc nhà vị tộc trưởng thì toàn thể các hậu duệ của tiền hiền có mặt. Trong lễ giỗ có đọc bài văn ghi lại công ơn to lớn của vị khai thuỷ và tấm lòng ngưỡng mộ, ghi nhận công đức của tiền nhân đã dày công phát triển giòng họ, thành lập nên làng. Đây là dịp hội tụ của con cháu trong giòng họ đông đủ nhất. Qua lễ giỗ tiền hiền họ tìm hiểu nhau, nối kết lại tình thâm, xây dựng tình đoàn kết, giúp đỡ trong khó khăn hoạn nạn, ôn lại truyền thống giòng họ, nhắc nhau phát huy truyền thống trong xây dựng tộc họ lớn mạnh và góp sức xây dựng quê hương, đất nước.

          Một bài văn tế trong lễ giỗ tiền hiền tại nhà thờ làng Đông Phước, huyện Hoà Vang như sau:

          …Bổn xã chức việc, toàn dân đẳng.

Tư nhơn, tiết thuộc thu thiên thời đương chánh kỵ.

Cẩn trí tế chủ ……,

Kiền dụng phẩm vật tư thành, hương đăng, thanh chước, thứ phẩm chi nghi.

Cảm cáo vu:

-Thượng niệm tiên thế Võ tộc, cao cao chi tổ, viễn viễn chi tôn chư tôn linh.

Tiền hiền công thần Võ Văn Nghĩa, sắc phong: “Nẫm trứ linh ứng vi dực bảo trung hưng linh phò chi thần”.

– Kiến bộ công thần Võ Văn Oai Quý công vị tiền

-Tả ban Hậu hiền chư tôn linh,

-Hữu ban hậu phái chư tôn linh.

-Đông phối chư phái tôn linh,

-Tây phối chư phái tôn linh.

Cập kỵ:

-Thập loại âm hồn, cô hồn, âm dương hồn liệt vị tiền.

Viết: cung di:

-Tiền hiền hữu khai tất tiên kỳ lai giã viễn

Công cao phối địa, đức trọng tợ thiên.

-Bắc địa tùng vương, Nam thiên triệu thuỷ,

Đông trạch hoằng thâm, Phước trưng thanh yến.

-Thiên tải thiệu cơ cầu chi nghiệp,

Bá niên truyền nhơn hậu chi nguyên.

-Sắc tặng Hoàng ân, công cao thuỳ võ miếu

Danh phương cao chúc, tài bồi đức đại tráng sơn xuyên.

-Nam địa tiền trình Ngọc điệp kim chi đồng Hồng Lạc,

Đông phong lập hiệu chư tôn quý tộc kế phụng tiên.

-Phước  địa chừ anh, tục mỹ phong thuần thuỳ vũ hậu.

Đông sơn giục tú, địa linh nhơn kiệt, diệm quang tiền.

-Tư nhơn tiết thuộc thu thiên, thời đương kỵ nhựt,

Cẩn dụng phỉ nghi chi sánh lễ, nguyện kỳ giám cách tích dĩ an ninh.

-Bảo xã nội biền trăng phú thứ,

Hộ toàn dân lạc đắc huân đinh.

-Ngưỡng lại Tiền hiền,

Chi gia huệ giã.

-Phục vị cẩn cáo!

 

          Hoặc một đoạn trong bài văn tế tiền hiền tại huyện Điện Bàn:

          Nhớ tiền hiền xưa đức độ cao minh

          Biết trước việc làm nên sự nghiệp

          Tấm gương trong sáng mãi còn ghi

          Chiếm địa gia công chẳng quản

          Đắp xây cho hậu thế sau này

          …

          Tưởng nhớ tiền nhân thuở trước

          Đã dày công xây dựng tiền đồ

          Nhân ngày văn hiến bổn thôn

          Thành tâm kính cẩn tiền bối tiên linh

          Về bảo hộ thôn dân an cư lạc nghiệp

          Tiến bộ văn minh phúc lộc trưng

          Lai hạ lại thành, tấn tài, tấn lộc, đắc lộc, đắc danh

          Ngưỡng lại tiền hiền chi gia huệ giã.

  Phục vị cẩn cáo[15].

 Cúng Tiền hiền và tế tự khác tại Cù lao Chàm

Nằm ở xã đảo Tân Hiệp thuộc thị xã Hội An, cách cửa Đại chừng 15 km về hướng đông – nam. Tại đây có 7 đảo lớn nhỏ, gồm: Hòn Lao, Hòn Mồ, Hòn Tai, Hòn Dài, Hòn La, Hòn Khô Mẹ và Hòn Khô Con. Trong đó lớn nhất là Hòn Lao và nhỏ nhất là Hòn Khô Con. Diện tích Cù lao Chàm 15 km2, trong đó rừng chiếm 90% diện tích.

          Người Việt ra định cư sinh sống tại cù lao từ thế kỷ thứ XVII [16]. Trải qua mấy trăm năm sinh sống và phát triển, người Việt nơi đây vẫn giữ được các tập tục như trong đất liền, đầu tiên vẫn là xây dựng hệ thống các thiết chế văn hóa: đình Tiền hiền, chùa Hải Tạng, lăng Ông ngư, miễu Tổ nghề yến sào, om, giếng Xóm Cấm… tại cù lao. Ngày nay có thể tìm thấy được 25 công trình kiến trúc cổ với loại hình đa dạng, đảm báo đủ các chức năng tổ chức các loại hình lễ lạc tinh thần cho nhân dân theo tứ thời tiết lạp, qua đó tạo điều kiện giữ gìn và phát huy phong tục tập quán tốt tại cù lao Chàm. Đây là những công trình tôn giáo, tín ngưỡng của cư dân Chăm Pa chuyển tiếp sang cư dân người Việt với những tập tục biển đảo rõ rệt. Tiêu biểu trong số các di tích này là chùa Hải Tạng và miễu Tổ nghề yến sào. Chùa được xây dựng vào năm Cảnh Hưng thứ XIX (1758) với mục đích đáp ứng nhu cầu tâm linh của cư dân biển đảo; đồng thời là nơi cho các thương thuyền mỗi khi ngang qua nơi đây có chỗ ghé vào lễ Phật, cầu xin đức Phật phù hộ, độ trì trên con đường làm ăn buôn bán được thuận buồm xuôi gió. Giống như tập tục của cư dân biển đảo khi họ còn ở đất liền, chùa Hải Tạng mái lợp ngói âm dương, trên nóc, đầu hồi được đắp nổi rồng phượng uốn lượn mềm mại thật uyển chuyển. Bộ khung đình có kết cấu vì kèo theo kiểu truyền thống của kiến trúc người Việt “chồng rường giả thủ” chạm trổ các loại hoa văn tinh tế. Chùa còn lưu giữ các hiện vật thờ cúng bằng sành sứ và một chiếc chuông đồng lớn đúc vào năm Canh dần [17]. Hàng năm nhân dân tại đây tổ chức cúng Tiền hiền có công tìm gặp, khai phá ra cù lao Chàm, nay là xã Tân Hiệp, thuộc thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Các bước tế tự giống như trong đất liền, tuy nhiên sinh sống chủ yếu bằng nghề biển giã, yến sào nên nên cùng với cúng Tiền hiền, các tế tự khác vẫn được xem trọng như cầu ngư, nghề tổ yến sào…

Yến sào là sản phẩm chính của cù lao, sau khi định cư mưu sinh, người Việt nơi đây đã tạo nên tập tục khai thác yến sào trong các hang đá theo mùa vụ. Giáo sỹ người Ý Chistoforo Borri đến Đàng Trong năm 1621 đã chép về dặc sản yến sào tại Cù lao Chàm như sau: Yến sào đem chế biến với thịt, rau và gia vị thì sẽ trở thành một món thơm ngon nhất, giống như món Manna của người Ý, chỉ khác một đằng là công trình của một con chim bé nhỏ tạo nên, một đằng là do tay các thiên thần của Thượng đế nhà nặn. Và, đây là món rất ngon và bổ nên chỉ có chúa độc quyền sử dụng, người ta dành tất cả cho ngài và ngài đem số lớn cống cho Tàu là người rất ưa chuộng”[18]. Nay, đã tạo nên ngành nghề khai thác có quy mô và phát triển rực rỡ. Họ lập miếu thờ Tổ nghề yến ngay trên Bãi Hương,[19] hằng năm những người sống bằng nghề thu hoạch yến sào tổ chức tế lễ tổ nghề. Vào thời Gia Long, năm 1806 cho lập đội Thanh Châu quản lý và khai thác yến sào, có chức quan Quản lĩnh tam tỉnh Yến hộ trông coi; đồng thời đôn đốc việc xây dựng  miễu để thờ tự các bậc tiền bối của nghề và thờ thần Thành hoàng bảo an chính trực, bổn xứ Thổ thần [20]. Hằng năm vào ngày 10 tháng 3 âm lịch, cư dân nơi đây  có tục tổ chức cúng tế rất lớn chuẩn bị cho mùa khai thác tổ yến [21]

 Khao lề thế lính Hoàng Sa

 Ngay từ khi vào trấn nhậm phương Nam, Chúa Nguyễn đã cho lập đội Hoàng Sa để giữa đất, giữ đảo-dẫu chưa biết chính xác năm thành lập, nhưng vẫn có thể khẳng định rằng đội Hoàng Sa được thành lập vào cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII, vào thời “hồi đầu dựng nước” của Triều Nguyễn. Trong Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn đã có ghi chép về đội Hoàng Sa: “Trước, họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 xuất, lấy người An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ đến tháng 2 nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn 6 tháng, đi bằng 5 thuyền câu tư mà ra biển… Đến kỳ tháng 8 thì về”. Sách Hoàng Việt địa dư chí của Phan Huy Chú ghi rõ: “Quần đảo Hoàng Sa nằm ngoài khơi, các vua đời trước đặt ra quân giữ Hoàng Sa gồm 70 người, thường lấy người xã Vĩnh An. Hằng năm cứ đến tháng 3 nhận lệnh mang lương thực trong 6 tháng rồi dùng 5 thuyền ra khơi; đi 3 ngày, 3 đêm thì đến đảo; đến nơi, vừa canh giữ, vừa đánh cá mà ăn. Vật báu ở đó rất nhiều, nên đội quân này vừa làm nhiệm vụ canh giữ, vừa khai thác vật báu. Đến tháng 8 thì về cửa Eo (Thuận An) lên tâu nộp ở thành Phú Xuân…”. Từ các nguồn tài liệu trên, cho thấy nhà Nguyễn đã đưa quân đi giữ đảo từ khi mới vào phương Nam trấn thủ. 70 suất đinh đã trở thành tục lệ, phiên chế hàng năm cho đội Hoàng Sa được lấy từ làng An Vĩnh, về sau còn thêm người ở làng An Hải. Tài liệu nghiên cứu cũng đã xác định rõ làng An Vĩnh, An Hải thuộc xã Tịnh Kỳ, dọc theo cửa Sa Kỳ của huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Một điều cần lưu ý ở đây là  làng An Vĩnh, An Hải còn có ở huyện đảo Lý Sơn (còn có tên cù lao Ré, tỉnh Quảng Ngãi). Sở dĩ 2 địa danh An Vĩnh, An Hải vừa có tại huyện Sơn Tịnh, vừa có tại huyện đảo Lý Sơn là do dân làng An Vĩnh, An Hải ở đất liền ra đảo Lý Sơn khai đất, lập ấp…  Lý Sơn (cù lao Ré) cách cửa biển Sa Kỳ tỉnh Quảng Ngãi về phía đông nam chừng 22 km. Xưa, cù lao Ré thuộc huyện Bình Sơn, nay tách ra thành lập một huyện với 3 xã An Hải, An Vĩnh, An Bình.

70 suất đinh của đội Hoàng Sa được chia đều cho các tộc họ các làng An Vĩnh, An Hải, An Bình cả trong đất liền và ở đảo Lý Sơn. Các tộc họ nhận suất đinh theo nguyên tắc luân phiên và chỉ có con trai thứ mới đăng lính Hoàng Sa xưa như vậy đã trở thành tập tục trong các xã. Những di tích của đội Hoàng Sa vẫn còn nhiều tại làng An Vĩnh (xã Tịnh Kỳ, huyện Sơn Tịnh, Quảng Ngãi): Vườn Đồn: nơi lính Hoàng Sa đóng doanh trại; dấu tích Miếu Hoàng Sa: nơi đội Hoàng Sa tế thần trước khi lên thuyền “một đi không trở lại”. Trước đây, miếu có thờ cốt ông Hoàng Sa (xương cá voi) gọi là Thần Hoàng Sa, do những người lính Hoàng Sa đưa về. Đình làng An Vĩnh, đình An Hải thò 8 vị tiền hiền thuộc các họ tộc Phạm, Võ, Lê, Nguyễn, Trương, Trần, Dương, Đặng đã từ đất liền hai huyện Bình Sơn và Chương Mỹ thuộc tỉnh Quảng Ngãi ra dựng nghiệp vào đầu thế kỷ thứ XVII. Đình là nơi những binh phu Hoàng Sa trong đất liền lẫn Cù lao Ré (đảo Lý Sơn) tế tự trước khi xuất hành lẫn trở về (từ căn cứ này, có thể thấy rằng đội Hoàng Sa xuất quân tại cửa biển Sa Kỳ).

Các di tích của đội Hoàng Sa còn tìm thấy trên đảo Lý Sơn: Âm linh tự nằm phía tây bắc của đảo (Lý Vĩnh), nơi đây từng diễn ra lễ “khao lề thế lính” hằng năm, đến nay vẫn còn tổ chức. Khao lề thế lính là lễ duyệt danh sách các tộc họ (gọi khao lề) để chọn người bổ sung và thay thế lính mới vào đội Hoàng Sa (gọi thế linh) ra vùng biển nơi có 130 đảo lớn nhỏ trên biển Đông để xác lập và giữ chủ quyền cùng bảo vệ và khai thác hải sản. Mỗi năm tổ chức lễ đều có đua thuyền. Người đảo Lý Sơn (cù lao Ré) thạo đi thuyền nên hằng năm hội đua thuyền là dịp họ trổ tài bơi. Có 4 đội thuyền đua mang tên tứ linh, mỗi đội một tên Long, Lân, Quy, Phượng. Mỗi đội đua cũng chọn một miếu làng hoặc đình làng làm nơi thờ tự. Âm linh tự còn là đài tưởng niệm chiến sĩ trận vong, hàng năm đều tế tự lính Hoàng Sa và những người bỏ mình trên biển; Miếu thờ và mộ cai đội Phạm Quang Ảnh (tương truyền được phong Thượng đẳng thần).

Trên đảo Lý Sơn còn có các di tích dinh Bà Thủy, Bà Chúa Vàng, Bà Chúa Lồi, dinh Bà Thiên Y a na, dinh ông Cao Các, dinh Tam Tòa, miễu Ông Quỷ, miễu Hội Đồng, miễu Thần Nông. Nhìn xem tại Lý Sơn với 24 tòa dinh miễu mới hiểu được người dân nơi đây chuyên chở vật liệu từ trong đất liền ra đảo để xây dựng, công lao to lớn là thế nào!

– Nhà thờ tộc họ Phạm có nhiều người đi lính Hoàng Sa (điều này thể hiện trên câu đối treo trong nhà thờ, nêu lên chí khí và lòng trung thành của dòng họ vì đất nước: Trung can huyền nhật nguyệt/ Nghĩa khí quán càn khôn); Dinh Ông Thắm: thờ cai đội Võ Văn Khiết, tương truyền được phong Thượng đẳng thần và được dân ở đây tôn là Thành Hoàng; Khu mộ gió: là một khu nghĩa địa dành cho lính Hoàng Sa, có tên tuổi những người lính Hoàng Sa dù ở dưới không có xác người.

 Những người lính Hoàng Sa-những lính thú trấn đồn- mỗi khi “bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa”, đều biết rằng, khi họ và đội Hoàng Sa thì một đi không trở lại. Vùng biển Quảng Ngãi vẫn còn lưu truyền những câu ca:

Hoàng Sa trời nước mênh mông,

Người đi thì có mà không thấy về

hoặc:

 Hoàng Sa mây nước bốn bề,

 Tháng hai khao lề thế lính Hoàng Sa.

Chính vì không mấy ai trở về sau 6 tháng đi canh giữ Hoàng Sa, mà trước khi người lính đội Hoàng Sa xuống thuyền ra biển, người tiễn đưa theo tập tục thực hiện nghi lễ khao lề tế lính Hoàng Sa (hay còn gọi là khao lề thế lính Hoàng Sa) để hy vọng người đi còn may mắn trở về. Mỗi người lính Hoàng Sa khi ra đi đều phải tự chuẩn bị cho mình một đôi chiếu, 7 đòn tre, 7 sợi dây mây; một thẻ bài bằng tre có ghi tên tuổi, bản quán, phiên hiệu để phòng khi gục ngã, đồng đội sẽ dùng bó xác, thả xuống biển cả mênh mông; Chiếc thẻ bài bằng tre cài trong xác như thông điệp gởi lại cho làng quê, bản quán nếu may mắn không làm mồi cho cá dữ, không bị sóng lớn đánh tan… Đoạn văn tế lính Hoàng Sa ghi:

Hỡi ôi!

Đất Việt trời Nam, nghĩ tưởng chiến sỹ hy sinh từ thuở nọ,

Cho hay sinh ký tử quy, đi có về không, thân đã mất mà danh ấy thọ.

Xót thương thay!

Những chiến sỹ tuân lệnh triều đình bảo vệ biên phòng, lãnh hải Hoàng Sa, Trường Sa đã liều thân vì Tổ quốc, son sắt một lòng ngang dọc chí nam nhi.

Phong ba dồi dập, tuyết suơng chẳng quản, mưa gió chẳng sờn, thề quyết bảo vệ biên cương, bờ cõi.

Cúi nghĩ:

Cõi u minh khó lòng tưởng tượng, chất trong chất đục phong hóa từ đầu,

Ngoảnh sang Đông, ngóng về Tây, hướng đi mơ màng dễ dàng lạc bến.

Ôi sắc nước hương trời xa đôi nẻo, lòng dễ mến yêu:

 Thủy phủ khiến sức nước ngưng, buổi sáng trong veo như trang điểm cho hồn các vị tựa cửa nàng tiên,

Tiếng sóng động đông dài, tưởng niệm dấu thần phương nao mờ mịt, ngóng hồn thiêng xa vời vợi mong được hàm ơn…

như một lời tri ân của người còn sống với người lính Hoàng Sa vĩnh viễn gởi thân mình nơi biển cả.

Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa là tập tục mong gởi chút niềm hy vọng của dân làng với người lính đi Hoàng Sa giữ đảo bình yên trên dặm dài sóng nước, may mắn trở về và cũng là để tế những lính Hoàng Sa “một đi không trở lại”, gởi thân xác cho biển cả mênh mông…

Nghi lễ khao lề thế lính Hoàng Sa được các tộc học ở An Vĩnh, An Hải, An Bình tổ chức vào ngày 20 tháng 2 âm lịch, trước ngày những người lính của đội Hoàng Sa xuống thuyền ra đảo. Tế Lễ khao tề thế lính Hoàng Sa là việc của gia đình và tộc họ có người đăng lính Hoàng Sa tổ chức, do chủ nhà hoặc tộc trưởng chủ bái tế lễ và do thầy phù thủy điều hành tế lễ. Thỉnh thoảng, làng vẫn thực hiện tế lễ và thực hiện tế ở đình làng, trong tế đình có khấn mời đầy đủ tên tuổi những người lính Hoàng Sa bỏ mạng trên biển.

Để ngày tế chính (là ngày 20 tháng 2 âm lịch) được trang trọng, mọi lễ vật được cả tộc họ chuẩn bị từ trước bằng nguồn kinh phí từ phần đất hương hoả (hoặc ghe thuyền) của ông bà để lại cho con cháu canh tác hoặc sử dụng. Lễ tế sẽ được kéo dài trong ba ngày (từ 17 âm lịch) và lễ tế chính sẽ được bắt đầu vào thời khắc chuyển giao giữa ngày 19 và ngày 20 tháng 2 âm lịch. Lễ vật hiến tế của lễ khao lề thế lính Hoàng Sa ngoài những lễ vật cần thiết như xôi, chè, rượu… nhất thiết phải có: 1 con gà, 1 con cá nướng, 1 con cua, 1 món gỏi cá nhám và những vật dụng mà người lính đi Hoàng Sa mang theo như muối, gạo, củi, mắm, nồi niêu… Đặc biệt trong lễ tục này còn có các linh vị, thuyền lễ và các hình nộm. Linh vị phải được làm bằng giấy màu đỏ, có chiều cao chừng 20cm, rộng 7cm, có ghi danh tánh người lính Hoàng Sa trong tộc gặp nạn; và trong tộc có bao nhiêu người đăng Hoàng Sa tử nạn thì sẽ có bấy nhiêu bài vị. Thuyền lễ được làm bằng 3 cây chuối dài 1,5 đến 2 mét được xâu lại với nhau bằng các thanh tre (đóng bè). Trên bè có gắn con thuyền bằng tre, có giấy ngũ sắc, có cờ, phướn, có buồm như thuyền dùng để đi Hoàng Sa, Trường Sa. Hình nộm được làm bằng bột gạo và thường chỉ có 3 hoặc 4 hình nhân. Các hình nhân có nón gõ, áo kẹp nẹp như trang phục của người lính. Nếu 4 hình nhân thì sẽ được đặt ở 4 góc thuyền, còn 3 hình nhân sẽ đặt dọc theo con thuyền với quan niệm “tam nhân đồng hành”. Khi lễ tế bắt đầu, 4 thanh niên khiêng thuyền lễ cùng đoàn tế lễ, có cờ phướn đi trước ra bến thuyền. Sau khi thầy cúng khấn thần linh bốn phương thì thuyền lễ sẽ được đốt đèn và thả xuống nước. Lễ tế khao lề tế lính Hoàng Sa được kết thúc vào khoảng 3 giờ sáng ngày 20 tháng 2 âm lịch.

Vùng đất An Vĩnh, An Hải, An Bình là nơi giao thoa văn hóa Chăm-Việt nên nghi lễ khao lề tế lính Hoàng Sa có nhiều nét tương đồng với nghi lễ hình nhân thế mạng trong lễ hội Rija Nưgar của người Chăm.

Lễ hội khao lề thế lính Hoàng Sa mang đậm nét nhân văn của văn hóa Việt: đó là sự cầu an cho những người lính đi Hoàng Sa giữ đất được bình yên suốt 6 tháng trời lênh đênh trên biển. Những người tế lễ, gởi hình nộm cho biển với hy vọng rằng những hình nhân thế mạng đó sẽ thay người lính Hoàng Sa gánh chịu những bất trắc, rủi ro để người lính bình an trở về (với nghĩa khao lề tế lính). Không chỉ có thế, Lễ khao lề tế lính Hoàng Sa còn là sự tưởng nhớ, biết ơn đến những người thân trong gia đình, dòng họ đã xả thân vì nước, vì lệnh vua (với nghĩa khao lề tế lính). Nghi lễ này còn là sự biết ơn của thế hệ hậu sinh với các bậc sinh thành, những người có công khai khẩn đất đai…

Đội Hoàng Sa của triều Nguyễn không biết đích xác năm thành lập và cũng không thể biết được năm đội bị “triệt bãi”. Các nhà nghiên cứu về Hoàng Sa chỉ dám đoán chừng đội Hoàng Sa bị “triệt bãi” vào những năm thực dân Pháp tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam. Tuy vậy, theo tục lệ tại đây, tế lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa vẫn được những dòng tộc có người đăng lính Hoàng Sa theo lệnh vua Nguyễn năm nào ở làng An Vĩnh, An Hải ven biển Sa Kỳ và đảo Lý Sơn tổ chức hằng năm để tri ân thế hệ cha ông hy sinh vì nước.

Hàng trăm năm trước, những người lính của đội Hoàng Sa đã vâng mệnh vua, đã thờ việc nước, sẵn sàng xả thân để bảo vệ từng tấc đất cha ông. Nghi Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa (hay là khao lề thế lính Hoàng Sa) là nét văn hóa dân gian đặc sắc đã trở thành lễ tục trên quần đảo Hoàng Sa. Không chỉ người xứ Quảng ra đảo mà họ còn mang theo cả dấu ấn văn hóa đặc trưng của phương Nam nắng gió.

Với Nghi lễ khao lề thế lính Hoàng Sa ở vùng ven của Sa Kỳ thuộc xã Tịnh Kỳ, huyện Tịnh Sơn, tỉnh Quảng Ngãi là một tập tục sinh hoạt văn hoá tâm linh dân gian có từ lâu đời tại xứ Quảng trên quần đảo này.

          Tập tục làng Thạc Gián

          Làng Thạc Gián xưa, nay là phường Chính Gián và Thạc Gián thuộc quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng trước kia  có những tục lệ quy định cho con dân trong làng phải tuân thủ thực hiện. Tục tại đây quy định những nền nếp sinh hoạt trong nhân dân do tổ tiên của làng Thạc Gián dựa vào thuần phong mỹ tục, những tập quán chung của vùng, miền mà đặt ra cho làng từ xa xưa nhằm bảo đảm cho thực thi nền nếp đạo lý trong cộng đồng làng xã, đem lại cuộc sống yên vui cho nhân dân trong làng.

          Tục tại làng cũng nhằm mục đích xây dựng cho mỗi người con, cháu trong làng sống đẹp trở thành người hiếu đạo đối với gia đình và dòng tộc, trở thành người công dân tốt trong cộng đồng xã hội và nếu có thể thì góp phần đem lại vinh quang cho xóm làng và dòng tộc.

          – Tục cúng Vắt vai: Tục này được áp dụng cho thanh niên nam nữ của làng khi họ thành thân (lập gia đình), họ được ghi vào danh sách của làng. Bấy giờ người con trai phải cúng cho làng một quan tiền gọi là Vắt vai. Nhưng quan tiền này làng không trực tiếp nhận mà giao lại cho người thanh niên đó giữ (là hình thức mượn lại của làng). Hằng năm cứ đến ngày Lạp (lễ tảo mộ), lại có nghĩa vụ đem nộp lãi vào Bổn của làng. Phần lãi này rất nhỏ, chỉ mang tính tượng trưng, nhưng nếu trong năm người thanh niên ấy gặp hoàn cảnh khó khăn như đau yếu hay hoạn nạn thì làng cho miễn nộp. Nếu chẳng may mất sớm thì người vợ có thể nộp thay, nếu muốn. Điều này không bắt buộc khi người vợ chưa hoặc không tái giá. Đối với người con gái, khi lấy chồng cũng như trai, cúng cho làng một quan tiền dưới hình thức nộp ngay mà không phải chịu lãi. Đối với gia đình khó khăn thì được miễn nộp. Quan tiền ấy do ông Trưởng tộc nhận và có thể giao lại cho một người nào đó trong làng cần tiền làm ăn mượn và cũng nộp lãi cho làng (phần lãi này cũng rất nhỏ, chỉ mang tính tượng trưng như tiền cúng Vắt vai). Tục này ngoài ý nghĩa làm cho con cháu nhớ đến ngày Lạp tức nhớ đến phận sự và sự quan hệ với làng xã, thì Bổn của làng cũng có thêm phần thu để dùng vào các việc công ích khác.

          Tục thưởng: Theo tập tục này thì bất cứ người con hoặc cháu nào trong làng nếu làm những việc như sau thì được làng thưởng: làm được những việc có lợi ích to lớn cho làng xã hoặc có công trạng đối với đất nước; cứu giúp người khác trong thiên tai, hoạn nạn;  đi thi đỗ đạt cao, đem vinh dự về cho làng xã tộc họ.

Hình thức thưởng như sau:

          Vào các kỳ tế lễ trong năm của làng thì ông, bà, cha, mẹ và bản thân người đó được tuyên dương và ghi tên vào sổ làng.

          Trong các dịp Xuân kỳ, Thu phước hằng năm của làng được ưu tiên thiểu khước –  làm lễ trước (vào lạy tổ tiên trước các con cháu tộc họ khác không có công trạng gì cùng thế hệ). Sau khi tế lễ được ngồi cùng chiếu với các bậc kỳ lão trong làng.

          Được thưởng một khổ lụa.

          Nếu người con cháu đó nghèo khó thì được làng ưu tiên cho nhận phần ruộng Thu hoặc ruộng Lạp hoặc được tặng một số hiện kim để làm ăn, sinh sống.

          Ngoài ra, làng còn thực hiện một số  hình thức thưởng ngoại lệ sau:

           Đối với con cháu trong làng nghèo khó mà có chí học tập thì được miễn nộp khoản tiền lệ cúng Vắt vai và được làng cho mượn hoặc hỗ trợ một số tiền để ăn học.

          Tất cả con cháu khi đi thi đều được làng tặng một hoặc hai quan tiền lam lộ phí đi thi, giống như xưa kia con cháu đi thi, ông bà, cha mẹ gởi theo cho con vài quan tiền:

Tiền đây, mang lấy mà ăn,

Tiền đây (mà) mang lấy ít quan con tiêu dường,

Con đừng bận bịu (mà) vấn vương,

Bước đi còn lắm dặm đường còn xa…

làm lộ phí đi thi, gọi là tấm lòng và sự kỳ vọng của làng đối với những người con cháu là học trò của làng khi đi ứng thí.

          Khi đi thi nếu con cháu nào gặp hoàn cảnh gia đình đơn chiếc như có ông, bà, cha, mẹ, già yếu, ruộng vườn không có người trông nom cày cấy cho kịp thời vụ thì làng cử người làm giúp để người học trò ấy yên tâm đi thi.

          Đối với con cháu đã thành thân mà nghèo khó, không có ruộng nương canh tác thì làng cho nhận ruộng Thu hoặc ruộng Lạp để làm ăn.

          – Tục phạt: Tục này áp dụng đối với con cháu trong làng đã thành thân (18 tuổi trở lên, đã có gia đình và đã được ghi vào sổ làng); nếu mắc phải các lỗi như: đối xử với bà con trong làng xóm, đồng tộc hoặc trong gia đình mà thiếu lễ phép, hoặc ngổ nghịch, phạm thượng, bất tuân giáo huấn của gia đình…Gia tộc và làng đã ra sức giáo dục, chỉ bảo nhiều lần, nhưng người đó không biết hối cải thì làng phải dùng biện pháp cứng rắn. Đó là lệ phạt (Trích ngoại), tức làng và dòng tộc không công nhận người đó là con cháu của làng, của gia tộc trong một thời gian nhất định nào đó – tuỳ theo mức độ vi phạm lỗi nặng hay nhẹ. Trong thời gian bị phạt, người bị phạm lỗi không được tham dự các buổi tế lễ, không được thưởng, không được hỗ trợ vào lúc mùa vụ thất bát và nhất là bị làng xóm khinh rẻ…Hết thời gian bi trích ngoại, người bị phạt phải mang một bàn trầu cau rượu đến cáo lỗi với gia tộc và với làng trong dịp tế lễ để xin làng xoá bỏ việc bị phạt để được công nhận là con cháu trong làng.

          – Tục hái sen, tát cá ở Bàu Làng, Bàu Sen: Hằng năm, đến mùa hè là mùa sen, những đoá sen đầu mùa được dân làng hái mang đến dâng cúng tại đình làng và các miễu xóm. Sau đó dân làng mới được hái sen mang về dâng cúng tại gia đường. Vào cuối hè, khi đã thu hoạch xong hạt sen, dân làng mở hội tát cá. Sau một năm sinh sôi, các loại cá gáy, cá giếc, cá rô, cá tràu, cá trê…đước bắt lên. Những con cá to và ngon được đem biếu cho các bô lão và các vị chức sắc, người già cả không thể tham gia tát cá. Tục này tại làng Thạc Gián tuy không lớn nhưng lại biểu hiện sự tôn ti, trật tự của mọi người trong làng đối với những quy định chung của làng.              

          Nói lý – hát lý của người Cơ tu

Đối với người dân Cờ tu, sống ở miền núi, trong quan hệ xã hội giữa các bản, làng, thôn (bhươl, cr’noon, vêêl) với nhau không tránh khỏi những thắc mắc nẩy sinh như tranh chấp đất đai, sông suối, trai gái quan hệ bất chính … xảy ra kéo dài khó giải quyết dứt điểm, thường dựa vào tục trong dân gian thông qua, nói lý-hát lý để giải quyết những vấn đề tồn đọng trong cuộc sống giữa cá nhân hoặc một bộ phận người dân trong cộng đồng. Đây là tập tục sinh hoạt văn hoá lâu đời của người dân Cờ tu.

Người Cơ Tu múa trong lễ hội (Ảnh tại làng A Rớt xã Lăng, 30/4/2021. St)

Tiếng Cờ tu gọi tục sinh hoạt văn hoá này là prá pr’ma, têng bh’nóch, tr’a [22] không rõ ai đã dịch ra là lý. (Những người Kinh sống lâu năm cùng với người Cờ tu, biết thành thạo tiếng nói của đồng bào thì cho rằng prá pr’ma, têng bh’nóch, tr’a mà dịch ra lý theo kiểu tiếng Việt là chưa lột tả hết loại hình sinh hoạt dân gian này). Khi chúng ta vẫn quen hiểu rằng  lý không phải là dùng lý lẽ, biện luận dài dòng, bắt bẻ người đối thoại với mình phải chấp nhận quan điểm của mình là đúng. Lý theo người Cờ tu là trong giao tiếp nêu lên một hình ảnh thể hiện được toàn diện và bao quát nhận thức của mình đối với sự việc, không kèm theo lý lẽ, không có phân tích mà ở đây chỉ dùng hình tượng ẩn dụ ví cái này là hiểu nghĩa cái kia nhưng lại làm cho người nghe nhận biết ý kiến của mình là đúng và chấp nhận.

Để giải quyết một vụ việc liên quan giữa hai làng với nhau, sau khi thống nhất về thời gian, nội dung, hình thức tổ chức, làng bên nào vi phạm điều ước trước, đồng bào Cơ tu gọi là t’noom véh tu hoặc làng mang ơn phải trả ơn thì phải dắt trâu, heo và các loại ché, chiêng, trống, nồi đồng… đem dâng cho làng bên kia gọi là tooi. Làng nhận lễ vật chuẩn bị nếp, gà, cá, chim, ếch, rượu đãi khách đến làng mình. Trước cổng làng dựng một lều bằng tấm dồ đón khách, người đón khách phải có uy tín trong làng. Khi khách đến làng, chủ mời ly rượu, miếng mồi và nước uống, khách đứng và nhận lấy những thứ đó đi vào làng. Tại đây, vị chủ làng đón tiếp theo thứ bậc: đàn ông bên khách vào nhà gươl do chủ làng tiếp, đàn bà và người nhỏ  vào các hộ gia đình đón tiếp. Ăn trưa và nghỉ ngơi. Đi thăm thú. Tối xuống sau bữa cơm, đàn ông tổ chức uống rượu, thanh niên tổ chức hát múa với nhau chuẩn bị cho ngày mai. Tối thứ hai là quan trọng, hai bên ngồi lại với nhau uống rượu, vừa nói lý – hát lý để mổ xẻ sự việc và dặt ra câu hỏi, tại sao phải làm việc này, nguyên nhân từ đâu, ai vi phạm trước, cách thức giải quyết như thế nào? Tối đó các vị già làng thống nhất với nhau trên cơ sở nói lý và hát lý về nội dung các vấn đề cần giải quyết. Trong đêm thứ hai trai gái nhảy múa theo nhịp trống chiêng pr’lư bhr’noóh, cr’lới cr’bơ, khen ahel và đôi trai gái chưa thành thân thì rủ nhau đi sim suốt đêm thâu.

Trong sinh hoạt cộng đồng, sau các cuộc hội họp lớn hoặc giải quyết nợ nần, hoặc giải quyết tranh chấp đất đai, rừng, suối…người Cờ tuthường có hạ heo, trâu, bò khao đãi; hoặc sau đám cúng thần linh quan trọng, phần lễ xong, kế là phần hội hè đình đám. Khi men rượu cần, rượu t’ vạc ngấm ngà ngà, các bên đối thoại thường cất tiếng hát qua lại để tỏ bày gan ruột của mình, nhắc nhau làm đúng lời hứa hẹn. Trong những đêm có trăng khi trời xanh mây trắng, gió mát nhẹ người, các chàng trai chưa vợ, các cô gái chưa chồng rủ nhau ra chòi rẫy chuyện trò, tìm hiểu, hứa hẹn giữ tình chung thuỷ. Họ nói chuyện thủ thỉ tâm tình và hát những câu hát trữ tình qua tiếng trầm tiếng bổng của “đàn môi[23]. Người hát đặt đàn lên môi, dùng một ngón tay gảy nhẹ làm cho lưỡi gà rung lên và khéo léo hát vào tiếng rung đó. Âm thanh từ đó mà ra. Không có câu hát sẵn mà tuỳ cơ ứng biến như kiểu hát kiến tại của người Kinh. Họ ứng khẩu và hát lên vần điệu, trong lời hát phải nêu cho được hình ảnh đẹp nhất, sâu sắc nhất, bộc lộ một cách kín đáo nỗi lòng của mình. Hát như vậy gọi là hát tình ý với nhau của đôi nam nữ. Tiếng Cờ tu gọi là bhnooch hoặc bh’bh’ooch, còn người miền xuôi xem đó gọi là hát lý.

Cả hai bên thống nhất với nhau những điều ước đã được hai làng bàn. Trong quá trình phát triển, trong cuộc sống giữa hai làng có gì khúc mắc phải kịp thông báo cho nhau để cùng phối hợp, không nên tự tiện từ bé xé thành to. Bắt đầu từ hôm nay trở thành anh em một nhà, có việc gì phải giải quyết nhanh hợp lý, hợp tình, không để lâu dài. Bên nào vi phạm điều ước đã thống nhất thì bên đó chịu trách nhiệm.

Sau đêm ấy, mang rượu t’vạc ra uống chúc mừng, sự việc đã giải quyết xong, ai về nhà nấy.

Người Xơ Đăng chuẩn bị tuốt lúa tại rẫy (Ảnh St)

Người Xơ Đăng thực hiện nghi thức cất lúa vào kho (Ảnh St)

Mới nghe qua, chúng ta có thể lầm tưởng rằng nói lý, hát lý của người Cờ tu là nói ví dụ, là hát hò khoan theo điệu. Không đơn giản như vậy! Hình ảnh nói hoặc hát lý nghe gần gần, xa xa có nhiều ẩn ý (dùng biện pháp ẩn dụ), có chiều sâu về tâm lý và nhận thức, hình ảnh đó quen thuộc với mọi người nhưng lại buộc người nghe phải suy lý để thấy hết mọi khía cạnh của hình ảnh đó. Thật là độc đáo! Muốn nói lý, hát lý hay, sâu sắc, trước hết phải hiểu vấn đề nêu ra một cách tường tận. Phải chọn hình ảnh thật chính xác, thật “chết lý” làm cho người nghe không thể vin vào những sơ hở để bắt bẻ hoặc hiểu lầm. Nói một cách khác, người nói lý hoặc hát lý hay, ngoài việc ăn nói lưu loát, nhanh trí tìm ra vần, biết lên bổng xuống trầm đúng lúc, đúng điệu, thì điều cơ bản là phải hiểu cho rành rọt đất nước, tài nguyên, hiểu xã hội, phong tục, tập quán và con người đang sống và lao động ở vùng đất đó. Gọi tên một con suối phải biết đó là con suối cát hay suối đá, nước trong hay đục, sâu hay cạn, bốn mùa có nước hay chỉ có trong mùa mưa. Biết tường tận như vậy thì khi nghe người hát nêu tên con suối là biết ngay họ nói đến cái tốt, cái trong sạch, cái bền bỉ thuỷ chung, hay là cái xấu, cái dơ bẩn, cái tạm thời chưa ổn định. Cây lan biểu hiện sự yêu mến, cây kiền kiền, cây lim biểu hiện tính kiên cường vững chắc. Đó là những ẩn ý! Nêu tên conkhỉ là loại con vật phá hại mùa màng, phá hại cuộc sống, phải táo tợn hơn con heo rừng là kẻ thù của sản xuất, ngoan cố nhất, khó trừng trị nhất.

Một trường hợp mà người ta có thể bắt gặp nghệ thuật nói lý – hát lý của người Cơ tu, đó là dịp đám cưới. Sau khi đón khách xong, người chủ nhà (nhà trai) chuẩn bị mâm tiệc đón khách (ch’nao) hoặc đón chào các cụ cao niên (pay buốh tacoóch), đại diện chủ nhà thường là những người có uy tín, kinh nghiệm, có khả năng ứng khẩu lý tốt khởi xướng đầu tiên (pay h’la – tức tuyên bố lý do), thường thì chủ nhà nói rất khiêm tốn trong việc tiếp đãi tiệc tùng, phía khách nâng cao giá trị vật chất và tinh thần của chủ. Hát lý bao giờ cũng sau nói lý, hát lý là bước nâng cao giá trị của nói lý. Thường chủ tiệc chọn thời điểm thích hợp để cất lên tiếng hát mở đầu: “Ô…ô…ô…Azô achoọng / coonh vóc, coonh êên…” (phần đệm của điệu nhạc), sau đó nói lên nội dung, nội dung ở đây bằng những từ ẩn ý, sâu lắng trong truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Cái dặc sắc trong câu nói lý – hát lý là giữ được đạo lý của dân tộc, ví dụ: muốn ví bề trên, người có uy tín thì nghệ nhân đưa ra các vật có giá trị tương xứng như con gấu đem mật cho người, con trâu kéo cày giúp đời, con voi xác to, vòi quý…Như thế ý ở đây là con gấu, con trâu động vật quý hiếm chỉ cán bộ; mật là đem chủ trương, chính sách của Đảng đến với người dân; kéo cày là chỉ cán bộ làm vì dân; con voi là Đảng, Nhà nước; vòi quý là chủ trương, đường lối đúng đắn…[24] Hoặc nêu theo phương thức ẩn dụ để so sánh với người nhịp tạ [25] với một hình ảnh kẻ nhát gan, run sợ trước người nhịp tạ giỏi, điêu luyện, có tâm hồn nghệ sĩ, là vừa nhịp tạ, vừa nhớm chân, cúi xuống, ngẩng lên, toàn thân rung lên. Đó là biện pháp ẩn dụ một hình ảnh của một người mạnh khoẻ tự tin. Cùng một hình ảnh nhưng từng vùng, từng lúc biểu đạt ý nghĩa khác nhau, người có uy tín, ăn nói vững vàng nhưng lại nói, lại hát những điều mới nghe như ngớ ngẩn. Vậy, phải hiểu sau cái ngớ ngẩn là cái gì, ý đồ của người nói là thế nào. Không tính toán sâu sắc, thì có thể người nói, người hát muốn nói đen, ta lại hiểu là trắng, muốn nói phải, ta hiểu là trái, họ phản đối, ta tưởng họ tán thành. Đó là điều hết sức phức tạp, hết sức khó khăn trong nói lý, hát lý!

Nói chung, tất cả người Cờ tu đều biết nói lý, hát lý. Họ biết từ lúc nhỏ, từ lúc gùi được nước uống, lúc biết cầm cán rựa, con dao tham gia làm rẫy. Nhưng nói lý, hát lý sâu xa, nhiều tầng, nhiều lớp pha lẫn tiếng Cờ tu và tiếng kinh đả thông tư tưởng, giải quyết được công việc thì mỗi bản, mỗi thôn, mỗi vùng chỉ có một vài người. Nói lý, hát lý xem ra rất khó nhưng hiểu được nói lý, hát lý càng khó hơn. Người hát lúc cất cao giọng ngân nga, lúc hạ giọng, hát lầm thầm trong miệng, có lúc nói chậm từng câu từng tiếng, có lúc dồn dập đúng điệu, đúng phong cách.

Người Cơ Tu chuẩn bị lễ hội (Ảnh tại làng A Rớt xã Lăng, 30/4/2021. St)

Hát là phải hát có vần, thuận tai cho nên người hát có lúc dặm thêm nhiều tiếng đệm chỉ để hiệp vần, tuy nhiên phải biểu đạt được nghĩa nếu không sẽ không hiểu được câu hát hoặc hiểu sai lệch. Trước đây trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, phần đông cán bộ người Kinh đều biết tiếng Cờ tu nhưng cũng đến mức đủ để nói chuyện, phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho đồng bào nghe, còn lý thì thảng, hoặc rất ít. Trong lúc công tác anh em thường dùng một số hình ảnh đơn giản để kết luận các buổi thảo luận học tập, giúp cho cán bộ cơ sở và đồng bào dễ hiểu, dễ nhớ nội dung các bài đã học. Như thế cũng có thể gọi là một cách nói lý nhưng trình độ hiểu tiếng Cờ tu của anh chị em người Kinh chưa đến mức để hát lý, chỉ một số anh chị em có khả năng hát được, họ vận dụng để cùng tham gia hát lý với đồng bào.

Sau các cuộc họp giữa thôn này với thôn kia, xã này, xã nọ hay các cuộc gặp để giải quyết việc cưới xin, nợ nần, hoặc giải quyết một số vụ mất đoàn kết, những vụ tranh chấp đất rừng, khe, suối, nhất định có kết thúc bằng hát lý. Cả ngày, cả buổi gặp nhau, hai bên trình bày ý kiến, lý lẽ của mình, bàn qua cãi lại nhất trí một số điểm, tuy nhiên có thể còn một số ý kiến khác nhau, cả hai bên đều chờ ý kiến của người có uy tín nhất của mỗi bên phát biểu, tất nhiên người đó không kết luận ngay mà chờ đến tối uống rượu hát lý. Tại đây, qua câu hát, ý kiến sẽ được trình bày rõ ràng, cụ thể, kết thúc cuộc họp, căn cứ theo đó hai bên thoả thuận và làm theo. Cơm nước xong, người chủ thôn bản pha trà mời khách. Câu chuyện xoay quanh việc làm rẫy, bắt cá, bắt chim, săn thú rừng, việc về miền xuôi buôn bán, trao đổi hàng hoá…Chừng đến 20 hay 21 giờ đêm, chủ nhà cho dọn thịt ngon, cá ngon và cùng nhau nhắm rượu. Rượu thường là rượu bắp, rượu sắn, đôi khi có cả rượu t’đìn, t’vạc [26].

Ở vùng thấp, việc mua bán với tư thương người Kinh thuận lợi hơn thì chủ thôn, bản mua thêm rượu trắng. Người chủ tiệc tự rót rượu, ly đầu tiên tự uống để ra hiệu rằng không có vấn đề gì nghi vấn có trong rượu, sau đó rót rượu mời từng vị khách, trước hết là người cao tuổi, người có uy tín. Nếu là rượu cần thì những vị khách đặc biệt được mời cầm cần trước, sau đó mời đến các đại biểu. Không khí trong nhà bắt đầu náo nhiệt. Mời qua, mời lại, một vòng, hai vòng, ba vòng, câu chuyện bắt đầu. “Rượu vào lời ra”, lại nói chuyện làm ăn, trao đổi, buôn bán lỗ lời, đôi khi lại chen vào một vài ý kiến về cách giải quyết vấn đề đã thoả thuận ban ngày. Tuy nhiên, nhiều ý kiến rất dè dặt, mới chỉ chạy quanh lề, dò la ý tứ nhau. Bấy giờ người chủ tiệc cho dọn thêm thức nhấm, rồi chọn cơ hội thuận lợi nhất để cất tiếng hát khai cuộc.

Câu hát của người chủ tiệc không gì quan trọng, nói cho đúng, đó là một công thức mà người chủ tiệc nào cũng phải hát như vậy. Nói theo kiểu hát tuồng của người Kinh thì câu hát khai cuộc là câu giáo tuồng. Họ hát khởi đầu vài câu, người Cơ tu gọi là hát h’la có nơi gọi tưa.Trước hết là lời chào mừng các vị khách, sau có đôi lời tưa. Trong khi đang h’la, tất cả mọi người dự tiệc ngồi im chú ý nghe câu lý của vị chủ nhà nêu ra. H’la có nghĩa là chủ nêu nội dung khâu chuẩn bị của phía mình không tương xứng với khách, chưa được chu đáo mặc dầu dã chuẩn bị cẩn thận. Chủ nói khiêm tốn mong được sự thể tất vì thôn bản mình còn nghèo, nhà không đủ rộng, việc tiếp khách còn vụng về, đàn bà nấu cơm không dẻo, thịt không béo, rượu không ngọt, thuốc xắt không nhỏ…, tội nghiệp cho thôn bản, chỉ có tấm lòng mến khách, có bụng dạ đoàn kết, muốn làm anh em như con cháu trong một nhà…Hát xong, người chủ tiệc tỏ ý xin lượng thứ vì hát không thạo, lời lẽ thô thiển, giọng hát ồm ồm. Nghe xong khách cũng trả lời bằng lý, người trả lời cũng tương xứng ngang người bên chủ, ý trả lời là cảm ơn đã phục vụ chu đáo, đón tiếp nhiệt tình, mồi quý, rượu ngon dành cho khách. Câu hát khai cuộc như một hồi chuông nhắc nhở mọi người bớt nói chuyện. Các gia đình trong thôn bản vội vã dọn dẹp chuyện nhà rồi kéo nhau đến nhà gươl nghe hát, nghe cách giải quyết công việc và kết luận của người lớn. Cả ngày họ không dự họp, bây giờ họ được phép đến để nghe tại nhà gươl, nhà chủ. Những người đến dự nghe phần lớn là đàn bà và trẻ em, trình độ hiểu biết về hát lý còn non kém, họ xúm quanh các đại biểu, vừa nghe vừa học tập, có chỗ nào khó hiểu là lẩy câu hỏi ngay, nhất là hỏi các cụ già rồi trao đổi nội dung, tìm hiểu “cái ý” của câu hát.

Điều thú vị ở chỗ, cuộc hát lý vừa là cuộc so tài văn nghệ giữa hai bên, vừa là cuộc đấu khẩu với rất nhiều những ẩn dụ để giải quyết công việc, vì vậy hai bên đều âm thầm sắp xếp lực lượng và chỉ định ai hát trước, ai hát sau và ai là người kết thúc. Bên này hát một câu, bên kia đáp lại một câu, người đến xem cùng nhau bàn luận, trao đổi ý nghĩa câu hát. Từng cặp trổ tài, tuy hát cỡ nhỏ, cỡ vừa đều lên tiếng. Khi đã về khuya, rượu cốt trong các ché đã bày ra thì “chủ soái” của hai bên phải lên tiếng để kết thúc cuộc hát lý, kết luận cuộc họp cả ngày. Đó là điều mà mọingười đang mong đợi! Các tay hát cự phách này, mỗi người chỉ hát một câu, nhưng lời hát điêu luyện hình ảnh vừa đẹp, vừa mới, ý tứ sâu xa, tóm tắt được ý kiến của mọi người. Có thể nói cả nhà gươl đều im lặng, mở rộng tai để thu nhận lời hát. Người sáng ý nắm được cái lý, hiểu được cách giải quyết vấn đề, thấm thía cái hay, cái tinh tuý của hình ảnh nêu ra. Ai chưa hiểu hết thì về nhà suy nghĩ thêm, hoặc trao đổi nhau để thống nhất. Sau câu hát cuối cùng chấm dứt, bà con trong thôn bản ra về, trong nhà gươl lúc này bếp lửa được khơi ngọn cao hơn, chiếu mới, đẹp được trải ra mời khách nghỉ lưng sau một ngày thảo luận.

Tập tục nói lý, hát lý trong đồng bào Cờ tu có từ lâu đời, đã trở thành một phong cách thể hiện tình cảm, lý trí của đồng bào, thành nghệ thuật dân gian mà mọi người đều ưa chuộng. Nghệ thuật ấy điêu luyện đến mức nói ra, hát ra đồng bào hiểu nhau, thông cảm nhau rất dễ dàng, sâu sắc. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đồng bào dân tộc Cờ tu dùng kiểu nói lý, hát lý để qua mắt, qua tai địch, trao đổi ý khiến, thôngbáo tin tức cho nhau, cam kết với nhau mà kẻ địch có tai mà như điếc, có mắt như mù, nghe đồng bào Cờ tu chửi rủa mà địch cứ tưởng họ hoan hô tán thưởng. Còn đồng bào Kinh công tác tại vùng đồng bào dân tộc Cờ tulại biết vận dụng nghệ thuật nói, hát lý, thuyết phục, giáo dục quần chúng nghe theo lời Đảng, lời Bác Hồ để làm cách mang, mở rộng và củng cố khối đại đoàn kết, đề cao cảnh giác với kẻ địch, phân biệt rõ bạn, thù để có hướng và biện pháp hành động đúng đắn.

Ngày nay trong hoà bình xây dựng quê hương, đất nước, cán bộ dùng hát lý để tuyên truyền, giáo dục đồng bào nhận thức sâu sắc các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước để xây dựng cuộc sống mới ở vùng đồng bào dân tộc Cờ tu.

Tục hát (hoặc nói) lý nay vẫn còn phổ biến trong đồng bào dân tộc Cờ tu.

Những câu hát trong tập tục sinh hoạt

Để tiến đến hôn nhân gia đình, thanh niên nam nữ xứ Quảng ít nhiều chịu sự chi phối của cha mẹ, nhưng chủ yếu là họ còn tìm hiểu  nhau và yêu nhau. Dù trong hoàn cảnh nào thì những lời tự sự tâm tình vẫn được họ hát lên, trao gởi cho nhau. Do là vấn đề thầm kín nên môi trường diễn xướng của những câu hát dân gian – sau nầy gọi là Lý – không tiện để tỏ bày được, nên Lý không có sân khấu riêng, cả trên sân nhà một người nào đó cũng không.

Nếu gọi Hò là những khúc dân ca ra đời và gắn liền với lao động sản xuất thì Lý là những khúc tâm tình sử dụng trong vui chơi, trong gặp gỡ của những đôi trai gái, ở đó họ tỏ bày nỗi niềm riêng và vì nỗi niềm riêng nên những câu hát như thế không có nhịp điệu lao động, không có đối đáp huê tình như Hò, càng về sau, Lý có độ dài ngắn khác nhau nhằm thể hiện hết nỗi lòng mà có. Khi đã được cách điệu đưa lên sân khấu, Lý được xem “là thể loại “điệu nhỏ” dành cho các nhân vật thuộc tầng lớp dưới (nông dân, người hầu, lính trơn). Chúng mang tính chất diễn cảm riêng biệt, khắc hoạ sắc sảo tính cách nhân vật”[27]. Bước lên sân khấu hoà cùng với hát bội, các nghệ nhân tiếp nhận Lý dân gian với tư cách là một thể loại, họ bẻ làn nắn điệu, chuyển hoá chúng vào sân khấu. Và, từ đấy các điệu Lý ra đời được chia thành ba nhóm: nhóm trữ tình duyên dáng có Lý năm canh, Lý con sáo, Lý chơi xuân… nhóm hài hước, trào lộng như Lý Đồng Nai, Lý con quạ, Lý con ngựa… nhóm thể hiện tâm tư trong sáng như Lý Thiên thai, Lý Thượng, Lý thương nhau…[28]

Khi đã lên sân khấu là vậy, còn lúc tâm tình tự sự nơi quê kiểng của dân mọn xóm làng, ta có thể nghe được những lời vui buồn, hạnh phúc trong tình yêu.

  – Những câu hát trữ tình duyên dáng

Ai ơi không nhớ thuở anh thề

Cầm dao lá liễu dựa kề tóc mai[29]

Chữ đề vô đá lâu phai

Nằm đêm nghĩ lại ít ai có tình

Bông xứng bông bình lại xứng bình

Tiền năm quan họ rước,

          hai đứa mình còn đây

Tơ hồng bà nguyệt xe dây[30]

Chàng nam thiếp bắc hồi nầy phải xa

Làm chi tội nghiệp rứa bà

Can thường chi đó bỏ ta sao đành![31]

         

– Anh chê em nghèo khổ

Em về đụng chỗ giàu sang

Ra đi quan, lính coi đàng

Nghiêng mình xuống võng chào chàng buổi xưa

Chào rồi nước mắt như mưa

Tiếc ơi là tiếc, duyên xứng nợ vừa mà xa.

 

– Áo đen năm nút cũng đen

Nói chơi người lạ, người quen để dành

Lửa gần rơm như cơm gần mắm

Thiếp có gần chàng tội lắm chàng ơi

Hai tay áo ướt, chàng còn chờ nơi lửa hường

Sự làm ri ai thấy không thương

Ngoài da chim cá, trong xương phượng hoàng

Thiếp còn ngồi vòi vọi đợi chàng

Sao chàng không hớn hở với nàng cho vui.

 

Bạn phân làm sao cho phài phải

Để cho em giải lần lần

Kẻo gan khô từ đoạn, ruột không giần cũng đau

Rối như tơ em gỡ còn xong

Rối đầu có lược, rối tấm lòng khó phân.

 

– Bắt thang lên hỏi thiên hoàng

Duyên ta nợ bạn lỡ làng vì đâu

Thương nhau đâu kể giàu nghèo

Trách ai thay lòng đổi dạ, bỏ lỡ cái câu ân tình.

-Bạn về lòng ta khô, dạ ta héo

Bạn ra về không lẽ ta ré, ta kêu

Nghiêng tai giữa gió, ta bảo nhỏ đôi điều

Ai xa mặc họ, hai đứa mình nghèo đừng xa.

-Bạn ơi, ớ bạn vô đây

Tội chi mà núp, bóng cây mà ngồi. 

– Canh một thơ thẩn vào ra

Chờ trăng trăng lặn, chờ hoa hoa tàn

Canh hai thắp ngọn đèn loan

Chờ người quân tử thở than đôi lời

Canh ba đang nói đang cười

Còn hai canh nữa, mỗi người mỗi phương

Canh tư chấp bút thề nguyền

Ôi tình minh bạch chẳng tuyền thuỷ chung

Canh năm cờ phất trống rung

Qua gá tiếng cùng, em bậu chớ nghe ai.

– Còn duyên buôn thị bán hồng

Hết duyên buôn mít cho chồng gặm xơ

Còn duyên nón thúng quai tơ[32]

Hết duyên nón lá lại quơ dây chìu[33]

– Cha mẹ sinh chàng từ một cho chí mười lăm

Nói, con không mấy đứa lo nghi gia cho rồi[34]

Sắm sanh cậy một ông môi

Nói năm, ba chỗ chàng hồi không ưng[35]

Chàng nói chàng còn tuổi trẻ còn xuân

Theo thầy học tập, theo cái chưn sư đường[36]

Họ thấy chàng ăn học, họ thương

Kẻ kêu gả cháu, người thì gả con

Giốc lòng giữ mực sắc son

Gả cháu xin tạ, gả con cũng xin từ

Giờ đây sông Ngân vội bắt cầu Ô[37]

Đò đầy chờ khách lẽ mô cắm sào

Thuyền quyên ngộ gặp anh hào

Trên tơ mành chắp mối, dưới Nam tào định xây[38]

Trời xui gặp gỡ nhau đây

Kết duyên Tờn – Tấn sum vầy nhứt gia[39]

-Chàng về mua buồng cau cho tốt

Mua một bình rượu cho đầy

Để lên bàn độc xây

Anh quỳ xuống trước, em quỳ xuống sau

Mời hai bên cha mẹ, định duyên nầy cho con.

– Chiếc đò đầy không ai dễ sang sớt

Thiếp khuyên với chàng

          bước bớt cái chưn ra

Kẻo sông sâu sóng lớn

          chiếc thuyền phong ba không chừng!

          – Chiều chiều mây phủ Ải Vân

          Chim kêu gành đá gẫm thân lại buồn

          Buồn riêng rồi lại khóc thầm

          Tủi thân phận gái ướt dầm nắng mưa.

          -Rủ nhau các ả thuyền quyên

          Đánh quần đánh áo phút liền đi ra

          Một đoàn tím tía chói loà

          Yếm hồng khăn thắm coi đà xinh thay

          Này tao này ả này mi

          Này em này chị này dì này cô

          Cùng nhau hát hát hò hò

          Chơi trăng cợt gió ngỏ cho thoả lòng

          Chơi trăng kẻo nữa tàn trăng

          Có tình không buộc đêm nằm đặng sao

          Cho mau cho mãn cho màn

Lên trên hàng thịt xuống bầu cây đa.         

  – Những câu hát dí dỏm, trào lộng

Ai mua con quạ bán cho

          Đen lông đen cánh bộ giò cũng đen.

          –Ai về nhắn với bà gia

          Dọn đàng quét ngõ tháng ba dâu về.

          -Ba bốn nơi đi nói em không màng[40]

          Chờ nơi chết vợ sẵn sàng quy môn.   

          – Buổi xưa kia em có lời giao

          Bạn không bước tới, họ đốn gai họ rào

          Nay chừ duyên đã thành ao

          Rào thưa hơn bỏ trống, đố ai dám giành.

-Ba với ba là sáu

Sáu với bảy mười ba

Bạn nói với ta không thiệt không thà

Đùng đình kia trổ muộn, nửa già nửa non

Bạn nói với ta chưa có vợ con

Chừ vợ con mô than khóc nỉ non tê tề

Bạn nói với ta chưa có hiền thê

Chừ hiền thê mô đứng đó,

          bạn trả mấy lời thề cho ta.

-Bởi vì con heo nên em đèo khúc chuối

Bởi vì con muỗi nên thiếp thả màn loan

Bởi vì chàng nên thiếp chịu đòn oan

Phụ mẫu mắng nhiếc, thế gian chê cười.

– Bữa qua anh đi ngang trước ngõ

Thấy phụ mẫu em đánh đập

          em lăn, em lóc, em trằn, em trọc

Roi, dùi, nọc vừa mới đem ra

Quất một cái trót, hỏi mà theo ai ?

Lời thuỷ chung em chẳng dám khai

Anh đi ngang qua trước ngõ

          nước mắt nhỏ ngắn dài trên tay

Lập mưu, lập kế thậm hay

Quẹt diêm đốt rác, với tay la làng

Phụ mẫu em vừa bước chân sang

Anh vô nhổ nọc, tìm đàng đưa em đi.

– Con chim đa đa đậu nhánh đa đa

          nó kêu lắc la, lắc lẻo

Như con chim chèo bẻo đậu nhánh măng vòi

Bạn ơi, ớ bạn, ở hoài rứa răng ?

Trên trời có một cái trăng

Lâu đêm còn khuyết

huống chi nghĩa đạo hằng bạn không lo

Mai sau biển cạn thành gò

Sông Dinh cạn nước,

          bạn để chiếc đò cho ai ?

– Gạo đàng ngoài một tiền bảy chén

Gạo đàng trong một chén bảy tiền

Anh không tin anh về Đồng Nai mà ngó

Có quân tập trận có cái chòi bắn bia

Có ngựa hồng mao tiền mao hậu

Quân võ thần đầu đội mão đai

Súng vác vai tay cầm giáo cầm cờ

Cầm dao phay, cầm mác lỡ

Cầm thanh rựa, cầm rựa bụp

  của bảy đáp[41] hết cầm.    

  – Những câu hát trong sáng

Anh sắm cho em một đôi gióng sáu mây song[42]

Một cây đòn gánh cong bốn mấu

Cho em buôn thấu Trà Kiệu[43]

Dặn tấm lòng ai dỗ đừng xiêu

Để dưỡng nuôi phụ mẫu,

          buổi con trăng chiều có ta.

– Bạn về Phong Lệ xã[44]

Cho em nhắn trả đôi lời

Nhắn cùng bạn cũ ăn chơi đừng buồn.

– Cau khô khéo bửa cũng dày

Có thương cho mấy hồi nầy cũng xa

Bây giờ hỏi thiệt cô Ba

Còn thương nghĩa cũ hay là hết thương?

Ban ngày dang nắng, tối lại dầm sương

Thấy ta lao khổ mình thương không mình

Bao giờ cho liễu xa đình

Hạc kia xa hương án, hai đứa mình mới xa.

– Con cua vàng bò ngang khe suối

Thiếp với chàng sớm tối đừng bỏ ngãi nhau

Dãi dầu con ốc, miếng cau

Bên sang bên khổ, sang giàu có nhau

– Con gà trống tía cái lông cũng tía

Ngọn khoai lang giâm, ngọn mía cũng giâm

Thương nhau không dễ chi thương thầm

Thương thời rượu hũ trầu mâm tới nhà

Em còn thừa lệnh mẹ cha

Còn cô, chú bác,

 chứ không phải mình ta với chàng.

– Ngó lên hòn núi Thiên Thai [45]

Thấy đôi chiền chiện ăn xoài chín cây.

– Thương nhau trường đoạn, đoạn trường

Luỵ lưu lưu luỵ dạ dường kim châm.

– Trèo lên cây khế rung ô

Rớt xuống độp đùng trái ngọt trái chua.

 

———————————-

[1] Gọi tắt là Thành hoàng bổn xứ.

[2] Xem Ô Châu cận lục – Dương Văn An – Bùi Lương dịch. Sài Gòn 1961. Cũng xem Ô Châu cận lụcTrần Đại Vinh, Hoàng Văn Phúc –  hiệu đính-dịch chú –  Nxb Thuận Hoá 2001.

[3] Nay, ở xứ  Quảng có nơi còn xướng khi tế lễ, có nơi không xướng. Xét ra bài xướng dài, thực hiện hết các bước lại phiền phức.

[4] Lễ tục quan tức lễ đội mũ trưởng thành khi 16 – 20 (nữ thập tam nam thập lục) tuổi, rất ít được tổ chức ở xứ Quảng.

[5] Dẫn theo Nguyễn Xuân Hồng trong Phong tục – Tập quán  – Lễ hội Quảng Nam. Sở VH-TT Quảng Nam 2004.

[6] Bái này do nhóm giáo viên khoa học xã hội trường phổ thông cơ sở xã Đại Nghĩa sưu tầm. Người đặt bài văn: Tú tài Mai Xuân Sanh

[7] Theo: Một tài liệu về cuộc di dân nam tiến của tiền nhân – Lâm Hoài Nam – Nha TTBC Sài Gòn 1959. Tr 30. Cũng xem Quế Sơn, văn hoá và thắng cảnh – Nxb Đà Nẵng  1999, ghi: Từ năm 1402 thời Hồ Hán Thương…khi mất chôn tại Đồng Tràm (Quế Phú), Tr 38.

[8] Võ Hoàng – Công việc tìm hiểu lịch sử – văn hoá vùng Quảng Nam-Đà Nẵng qua các gia phả – Báo Quảng Nam-Đà Nẵng chủ nhật số 49 ngày 6-12-1987.

[9] Động: tương đương với xã của ta ngày nay.

[10] Võ Hoàng – Công việc tìm hiểu lịch sử – văn hoá vùng Quảng Nam-Đà Nẵng qua các gia phả – Báo QN-ĐN chủ nhật, TL đd.

[11] Nay là huyện Thọ Xuân, thôn Bàn Thạch.

[12] Hướng Đông Nam.

[13] Ngày kỵ.

[14] Nay, phần lớn các tộc họ tiền hiền đều đã có nhà thờ riêng.

[15] Theo Phong tục tập quán lễ hội Quảng Nam. Sở Văn hoá Thông tin Quảng Nam. Chủ nhiệm đề tài Nguyễn Đức Tuấn, biên soạn Nguyễn Xuân Hồng. Tháng 9.2004. Tr 224.

[16] Sách: Đại Nam Nhất Thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn viết về cù lao Chàm: “Cách huyện Diên Phước 68 dặm về phía đông là đảo Ngọa Long, cũng gọi là hòn Cù Lao, có tên nữa là núi Tiêm Bút, tên cổ là Chiêm Bất Lao, làm trấn sơn cho cửa biển Đại Chiêm; dân phường Tam Hợp ở phía nam núi; ruộng đất trên núi có thể cày cấy, thuyền bè nước ta có thể trông núi này làm chừng đi về đều đổ ở đấy để lấy củi, lấy nước”.

[17] Đời Minh Giác Hòa Thượng trụ trì.

[18] Xem: Chistoforo Borri, Xứ Đàng Trong năm 1621, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1998. Tr 30.

[19] Tương truyền ông tổ nghề yến sào tại Cù lao Chàm (làng Thanh Châu) là ông Trần Tiến.

[20] Theo Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ của Quốc sử quán triều Nguyễn, Nxb Thuận Hoá năm 1993 thì ông Hồ Văn Hoà được vua Gia Long cho giữ chức Quản lĩnh tam tỉnh yến hộ (tam tỉnh là Quảng Nam, Bình Định, Khánh Hoà).

[21] Xem: Mai Ký, Quảng Nam cuối tuần, số 1756(4978), 2006.

[22] Theo Alăng Ngước trong Nét độc đáo trong câu nói lý – hát lý của người Cơ tu, Tạp chí Đất Quảng tháng 4.2008, phiên âm là  p’ra’ pr’ma-têng bhanoóch.

[23] Đàn môi: một loại nhạc cụ bằng ống tre, trảy hoặc bằng đồng dài chừng 8 – 10cm, có gắn một lưỡi gà mỏng như lá lúa.

[24] Theo Alăng Ngước, Nét độc đáo trong câu nói lý – hát lý của người Cơ tu, Tạp chí Đất Quảng tháng 4.2008. tr 114.

[25] Nhịp tạ: một cách đánh thanh la (sênh) bằng đồng.

[26] Là rượu được lấy nước trong buồng non cây đoát và thân cây tà đìn có ngâm vỏ cây chuồn.

[27] Theo Nhạc sỹ Trương Đình Quang trong Men rượu hồng đào. Nxb Đà Nẵng 2005. Tr 193.

[28] Theo Nhạc sỹ Trương Đình Quang trong Men rượu hồng đào. Sđd. Tr 193

[29] Tóc mai:cặp đối xứng mai-liễu. Mai là cây mơ, hoa trắng 5 cánh nở vào đông băng tuyết, có quả khô, tươi, dùng ăn và nêm nấu hay làm thuốc. Văn nhân ví mai là tiên vì có vẻ thanh cao, không sợ tuyết sương và có sắc đẹp, hương thơm. Liễu: cây liễu lá dài, rủ xuống. Dao lá liễu: lưỡi dao dài như lá liễu.

[30] Tơ hồng bà nguyệt: (tơ đỏ, tơ thắm, chỉ hồng, chỉ đỏ, chỉ thắm) do chữ Hồng Ty, Trương Gia Trinh có năm người con gái, muốn gả cho Đặng Nguyên Chấn mà không biết gả người nào. Ông mới dạy năm người con ông ngồi trong một cái màn mỗi người cầm một sợi tơ, mỗi sợi mỗi màu, còn Đặng Nguyên Chấn thì ở ngoài nắm được mối tơ của ai thì cưới người đó. Nguyên Chấn nắm được sợi tơ đỏ, nhằm người thứ ba đẹp hơn hết. Trong Cung oán có: Đang tay muốn dứt tơ hồng, Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra.

[31] Can thường: tam can, ngũ thường. Tam can gồm: quân thần, phụ tử, phu thê. Ngũ thường gồm: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.: Xem Thiên thứ  hai mươi, chương Phụ Hạnh sách Minh tâm bảo giám viết: “Phụ nhân trượng ư nhân giã thị cố vô chuyên chế chi nghĩa. Hữu tam tòng chi đạo: tại gia tòng phụ; thích nhân tòng phu; phu tử tòng tử, vô cảm tự đoại giã”.= Đàn bà là người nương dựa ở người, cho nên không có nghĩa chuyên chế mà có đạo tam tòng là: ở nhà thì theo cha, gả rồi thì theo chồng, chồng chết thì theo con, không dám làm theo ý muốn. Minh tâm Bảo giám-Tạ Thanh Bạch – dịch chú. Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn 1959.

[32] Nón thúng: loại nón bầu như cái thúng úp, dành cho giới nhà giàu.

[33] Dây chìu: một loại dây leo nhỏ như dây xanh, rất dẻo, nhựa màu hồng. Dây dùng cột, bó, thắt, kéo… rất tiện cho nhà nông khi lên núi đốn củi hoặc bó, cột tre cây, nhánh tre, đi lá, đi bổi… Dây mọc nhiều ở vùng trung du và đồng bằng.

[34] Nghi gia: Cưới vợ, lập gia đình cho ra ở riêng.

[35] Năm ba chỗ: Đi hỏi vợ (nói vợ) năm ba nơi.

[36] Chưn (Phương ngữ) như chân. Cái chân.

[37] Sông Ngân, cầu Ô: là một đoạn sáng lờ mờ về đêm giăng ngang trời, ta trông xa như một vùng nước nên gọi là sông Ngân (dãy Ngân hà). Ở đây ý nói như chức Nữ và Ngưu lang chờ nhau bên bến sông Ngân vào ngày 7 tháng 7 hằng năm. Điển chép ở sách Kinh sở tuế thời ký, rằng ở hướng đông sông Ngân hà có Chức nữ (cháu trời) thêu dệt rất giỏi, trời gả cho chàng  Khiên Ngưu lang (chàng dắt trâu) hoặc Ngưu lang. Chàng Ngâu. Từ khi có chồng, nàng Chức nữ biếng nhác bỏ nữ công, không thêu thùa nên trời  phạt bắt vợ chồng phải xa lìa nhau, mỗi năm chỉ gặp nhau vài giờ đêm mồng 7 tháng 7 (đêm thất tịch) tại bến sông Ngân hà . Trước khi hội ngộ có chim Ô thước (con quạ) đội đá bắt cầu sang sông Ngân. Đêm ấy, nhìn lên trời thấy bên sông Ngân hà có 2 ngôi sao gặp nhau trong ít lâu sau lìa nhau. Vào tiết thất tịch quạ đều sói đầu. Đến tháng 8 lại có những nùi tơ trắng bay từ trên mây xuống. Đó là Chức nữ buồn vì xa chồng mà xé khung cửi thả tơ bay

[38] Tơ mành: (tơ đỏ, tơ mành, tơ thắm, chỉ hồng, chỉ đỏ, chỉ thắm) do chữ Hồng Ty, Trương Gia Trinh có năm người con gái, muốn gả cho Đặng Nguyên Chấn mà không biết gả người nào. Ông mới dạy năm người con ông ngồi trong một cái màn mỗi người cầm một sợi tơ, mỗi sợi mỗi màu, còn Đặng Nguyên Chấn thì ở ngoài nắm được mối tơ của ai thì cưới người đó. Nguyên Chấn nắm được sợi tơ đỏ, nhằm người thứ ba đẹp hơn hết. Trong Cung oán có: Đang tay muốn dứt tơ hồng, Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra. Nam Tào; nhôi sao ở phương Nam  (Nam tào Bắc đẩu).

[39] Tờn Tấn:1/là Tần, nước Tần thời  Xuân Thu, Chiến quốc bên Tàu. Hai nước Tấn – Tần  thời ấy có quan hệ bang giao thân thiết, đời đời kết làm thông gia với nhau.  Ở đây chỉ sự gắn bó, đôi bạn gắn bó nhau.Trong truyện  Trinh Thử :Muốn cho vẹn nghĩa Tấn Tần, Hai non ngảnh lại cho gần cả hai.2/ Tấn ở khu vực từ miền nam tỉnh Sơn Tây đến miền nam tỉnh Hà Bắc;Tấn ở miền Trường An tỉnh Thiểm Tây. Như thế, Tấn ở phía đông, Tần ở phía tây. Chỉ sự xa cách, mỗi người một ngả. Trong Lục Vân Tiên: Những e kẻ Tấn, người Tần, Nào hay chữ  ngẫu đặng gần chữ giai.

[40] Đi nói: đi hỏi vợ.

[41] Bảy đáp: là tiếng dùng để chỉ những người làm nghề mổ thịt heo, bò.

[42] Gióng sáu mây song: loại gióng chỉ có ba tao, mỗi tao hai sợi mây song (mây không chẻ đôi) vừa bằng chiếc đũa ăn cơm, lồng trong đôi gióng là đôi trạc. Gióng nầy người ta chỉ dùng gánh phân (bò, heo), đất, gạch, rác.

[43] Trà Kiệu: nay thuộc xã Duy Sơn, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Trước, vùng nầy có tên là Simhapura là kinh đô của Chăm Pa. Thời Lê Thánh Tông , hiệu Hồng Đức (1470), 13 họ tộc từ Nghệ An, Thanh Hóa di cư vào khai cơ, lập nghiệp và trở thành Tiền hiền của xã Duy Trinh, lập nên xã hiệu gọi là Ngũ xã Trà Kiệu, thuộc Thăng Hoa phủ, Hy Giang huyện.

[44] Phong Lệ: Trước là một xã hiệu. Nay tên gọi chỉ tồn tại trong dân gian. Phong Lệ nay đã chia làm hai thôn Phong Nam (thuộc xã Hoà Châu ,huyện Hoà Vang); Phong Bắc (thuộc xã Hoà Thọ, ngày 5 tháng 8 năm 2005 Chính Phủ ban hành Nghị định số 102/2005/NĐ, thuộc quận Cẩm Lệ) thành phố Đà Nẵng.

[45] Thiên thai = Tên núi, ở phía bắc huyện Thiên Thai, tỉnh Chiết Giang, (Trung Quốc), thế núi hùng vỹ như hình rắn bò. Tương truyền thời Hán có Lưu Thần và Nguyễn Triệu cùng vào Thiên Thai hái thuốc, được gặp tiên. Theo U minh lục: Năm Vĩnh Bình thứ V đời Hán, Lưu Thần và Nguyễn Triệu cùng vào Thiên Thai hái thuốc, gặp hai nàng tiên xinh đẹp bên bờ con suối lớn. Hai người lưu Lưu Thần và Nguyễn Triệu lại trong nửa năm. Hai chàng nhớ quê hương, từ biệt tiên nữ ra về. Tìm về đến nơi quê cũ thì anh em, họ hàng đã phiêu lạc đi đâu cả, nhà cửa không còn, hỏi  không ai nhận ra cả. Trong Tây Sương của Lý Văn Phức có: Khơi sông cho đến nguồn đào, Tìm đường lối cũ lại vào Thiên Thai.