GS.TS. MAI QUỐC LIÊN – Bàn về quan hệ giữa giáo dục và văn nghệ

372

        1. Giáo dục là việc lớn của quốc gia, liên quan đến vận mệnh của đất nước, liên quan đến sức mạnh, tiềm năng con người, văn hoá đất nước. Văn nghệ là việc ở ngoại vi nhưng xét cho cùng nó có tầm quan trọng đặc biệt, tính theo chiều sâu – chiều sâu nội tâm, chiều sâu văn hoá, chiều sâu tinh thần của con người và đất nước. Con người không phải chỉ là con người kinh tế mà phải là con người ngước nhìn, con người suy tư, con người với hàng triệu câu hỏi về kiếp người, kể cả con người tâm linh, vô thức, tiềm thức. Nói một cách đơn giản, đó là cơ sở thể chất và thế giới tinh thần, hạ tầng vật chất và thượng tầng trí tuệ. Giáo dục sẽ là chiếc cầu nối giữa các thế giới đó.

        Ngày nay, trong quá trình đổi mới giáo dục, có người hiểu một cách phiến diện về giáo dục, coi giáo dục chỉ là nơi đào tạo nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực nghĩa là gì, phải chăng là nguồn nhân công – sức người, là phương tiện cho kinh tế, là nguyên liệu cho sản xuất, là đối tượng cho kinh doanh? Theo Nho giáo phương Đông, giáo dục cũng có chỗ phiến diện khi không đặt con người trong kinh tế, vì vậy, nói dến giáo dục là nói đến đạo làm người, dạy làm người, đạo lý thánh hiền…Con người là con người của một hình thái kinh tế – xã hội. Nó vừa là nhân vừa là quả của hình thái ấy. đạo làm người cũng không thể thoát ly khỏi hình thái kinh tế – xã hội. Không có gì là vĩnh cửu, bất biến. Nhưng nó giáo dục chỉ để tạo ra nguồn nhân lực thì có lẽ nhấn mạnh được vế “thực nghiệp”, “hướng nghiệp”, nhưng phiến diện. Thế còn việc dạy làm người? Trong nhà trường luôn treo cái biển đã có từ hàng ngàn năm: Tiên học lễ, hậu học văn. Lễ là gì? Lễ là đạo đức, là ứng xử và trong trường là “tôn sư trọng đạo” – hiểu theo kiểu các nhà Nho học. Lễ ở đây đi với văn, là văn hoá, là kiến thức. Theo Bác Hồ, đó là đức và tài, hồng và chuyên. Tâm lý học ngày nay cho rằng, hạt nhân nhân cách của con người được hình thành từ rất sớm, vì vậy, giáo dục tiểu học chủ yếu là phải dạy làm người, dạy các cháu thưa gửi, vệ sinh cá nhân, nói năng, ứng xử với ông bà, cha mẹ, thầy cô giáo, dạy làm một con người lương thiện tử tế, luôn làm theo 5 điều Bác Hồ dạy. Học để làm người, sống chung với người, thích ứng và vươn lên trong cuộc sống, để lo cho mình, hoàn thiện bản thân đồng thời làm việc, cống hiến nhiều nhất cho xã hội, vì người cũng là vì mình…Ngày nay, trước yêu cầu phải tiến lên vượt bậc về kinh tế, khắc phục nghèo nàn, lạc hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới, chúng ta đang dốc sức làm kinh tế, nghĩ về kinh tế, học về kinh tế. Gần như kinh tế hoàn toàn chiếm lĩnh tâm tư của mỗi người,  và giáo dục, văn hoá, trong đó có văn nghệ chưa được chú trọng. Đó là một sự mất cân đối.

        2. Giáo dục đào tạo ra con người, con người là sản phẩm của giáo dục, trực tiếp là trường lớp nhưng rộng hơn là giáo dục của cả một xã hội, cả thể chế, và rộng hơn là cả của một dân tộc, một thời đại. Gia đình, làng nước, họ hàng, tổ chức, đoàn thể…đều có tác dụng giáo dục con người, nhưng giáo dục con người của chúng ta chưa đáp ứng nhu cầu tạo ra những con người yêu nước, khí phách kiên cường, xả thân vì sự tiến lên và sự phồn vinh của đất nước, xả thân vì mục đích khoa học. Vì lý tưởng độc lập, tự do. Nói là chưa đạt chứ không phải hoàn toàn không đạt. Giáo dục ngày nay là một bước lùi so với thời chiến tranh cách mạng mặc dù vẫn còn đó biết bao nhiêu thành tích, ưu điểm lớn lao của hàng triệu thầy giáo, của hàng triệu học sinh. Nói giáo dục khủng hoảng trước hết là khủng hoảng về tiềm lực, đầu tiên là sự bê bối về chất lượng mà sâu sắc nhất là khủng hoảng ở tầm cao lý tưởng. Có ý kiến cho rằng, giáo dục ngày nay đang bị suy thoái ở tuyến tư tưởng – tuyến tư tưởng đang bị những tư tưởng hữu khuynh dao động, mất định hướng lũng đoạn. Đặc biệt là ở phần khoa học xã hội nhân văn, văn học…Đây là vấn đề nên thảo luận, làm rõ và có kết luận để kiên định những tư tưởng của Đảng, của chế độ, của thể chế trong nhà trường. Không thể vì bất cứ một sự la lối nào, một sự chèo kéo nào mà lung lay niềm tin, thay đổi định hướng, vì như thế là tự sát. Khắc phục những yếu kém, bất cập, ấu trĩ giản đơn là chuyện khác.  Chính nhà trường là nơi phải gây dựng niềm tin cho thế hệ trẻ. Bởi vì, nhà trường là pháp quy, là thể chế, do vậy, phải có chương trình dạy học chuẩn mực. Nhà giáo cũng là người truyền giáo, phải có lòng nhiệt huyết, yêu mến, say mê với điều mình truyền đạt. Vậy nên vấn dề đào tạo giáo viên phải được chăm sóc kỹ lưỡng, vấn đề giáo dục chính trị, khoa học xã hội và nhân văn, trong đó có văn nghệ, phải được xem xét…Điều hành giáo dục ngày nay phần lớn là những nhà kỹ thuật rồi đến nhà kinh tế. Bởi vì thời đại chúng ta là thời đại tăng tốc của sự phát triển khoa học kỹ thuật mà ta phải đào tạo con người có kỹ năng, kỹ thuật, cho nên chọn lãnh đạo là chọn người có bằng cấp cao về khoa học kỹ thuật từ nguồn đào tạo ở nước ngoài. Nhưng xin lưu ý một điều là ở một số nước, người ta có đưa ra kiến nghị là nên lấy nhân tài lãnh đạo chủ yếu từ khoa học xã hội nhân văn. Ngày xưa có cái lệch là chỉ học văn, thi văn (tất nhiên hồi đó văn sử triết bất phân, văn theo nghĩa rộng là tất cả các kiến thức về xã hội, kể cả hoàng đế thì cũng phải đào tạo như vậy). Ngày nay, chúng ta hơi “choáng” trước các nhân tài về khoa học kỹ thuật, nhất là những người được đào tạo ở phương Tây, ở nước ngoài, đưa học lên làm giáo dục, và trong xu thế thị trường toàn cầu hoá hiện nay tất nhiên rất dễ đưa ra thuyết đào tạo nhân lực theo công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Mỹ hoá và Tây hoá giáo dục, biến giáo dục thành một thứ dịch vụ hàng hoá cao cấp, biến người thầy thành người làm thuê, hô hào xã hội hoá mà thực chất là tư nhân hoá, từ bỏ trách nhiệm của nhà nước, giao khoán cho tư nhân, vọng ngoại và ỷ lại vào nước ngoài, bất chấp những xuất phát điểm rất thấp của nền kinh tế của ta so với họ, bất chấp cuộc khủng hoảng nội tại của nền giáo dục từ mấy chục năm nay chưa bao giờ được khắc phục đúng hướng và lành mạnh, tỉnh táo.

        3. Trong bối cảnh giáo dục như vậy ta đặt vấn đề quan hệ giữa giáo dục và văn nghệ. Tại sao lại đặt như vậy ?

Trước hết, trong văn nghệ có vấn đề người đọc, người xem, và rộng hơn có vấn đề mà lý thuyết gọi là tiếp nhận văn học. Theo nhiều nhà nghiên cứu, sự tiếp nhận văn nghệ đóng vai trò rất quan trọng trong văn nghệ. Nhà thơ, nhà điện ảnh, nhà văn…chủ thể sáng tạo của văn nghệ, dĩ nhiên là rất quan trọng. Nhưng nếu không có người đọc, người xem, người tiếp nhận, đồng sáng tạo với tác giả, xúc động cùng với tác phẩm thì tác phẩm sẽ chết. Nhà  trường là nơi có hàng chục triệu người nghe, người xem lý tưởng, ưu tú, bởi vì họ được giáo dục thẩm mỹ, có văn hoá, trẻ trung, khao khát cái đẹp, lý tưởng…

Đối với đối tượng này, việc giáo dục thẩm mỹ qua chương trình chính thức và ngoại khoá, qua sách giáo khoa và những phương tiện khác là một việc quan trọng trong quá trình dạy làm người của nhà trường. Sách giáo khoa về văn học hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu vì biên soạn vội vàng, không sát tâm lý lứa tuổi, quá chạy theo để lấp đầy những chủ điểm đạo đức chính trị, “tích hợp” nhồi nhét quá tải, chưa thật hay và hấp dẫn đối với học trò, thêm nữa cách dạy lại cứng nhắc, thiếu nhiệt huyết sáng tạo, phê bình thiếu khoa học…nên học trò không hứng thú với môn văn. Trong một xã hội chạy theo khoa học – kỹ thuật thì khoa học xã hội, trong đó có lịch sử và môn văn bị lép vế, lại bị chán thì kết quả là phần lớn các bài văn, bài sử dưới trung bình và kém. Ngay cả bài văn được chấm 10 điểm cũng chỉ là sự sao chép nhiều ít bài giảng mẫu, trong khi môn văn đòi hỏi cao sự sáng tạo cá nhân. Văn nghệ dạy cho con người niềm say mê sáng tạo, cảm hứng về con người, về cuộc đời mở rộng vô biên qua không gian và thời gian, những hiểu biết, những cảm hứng nhân văn, lịch sử. Cuộc đời của mỗi người có một, nhưng văn nghệ sĩ nối dài, nhân lên nhiều lần cuộc đời ấy. Vì vậy, đến với văn nghệ là đến với cảm hứng, sáng tạo hạnh phúc. Văn nghệ để làm gì ? Câu hỏi đó đã từng được đặt ra trong những hội thảo quốc tế lớn…Văn nghệ có thể thổi cảm hứng cho cả một dân tộc như văn nghệ thời chiến tranh, thời “tiếng hát át tiếng bom”. Ngày nay, muốn xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, nhân đạo…người ta không thể không cần đến văn nghệ. Mà trước hết là cần cho nhà trường, cho giáo dục, cho thế hệ trẻ. Cho nên mối liên kết giữa hai bên là rất thiết yếu.

Nhà trường không những cung cấp công chúng cho văn nghệ, mà còn là nơi sản sinh tài năng văn nghệ. Ngày xưa, các nhà thơ thời Đường, Tống bên Trung Hoa hay các nhà thơ cổ điển Việt Nam phần lớn đều đỗ Tiến sĩ Văn học. Tuy nhiên, cũng có nhiều “ông Nghè, ông Thám vô mây khói, đứng lại văn chương một tú tài” (tú tài như Tú Xương,  Nguyễn Du). Thời hiện đại, các nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ, hoạ sĩ xuất thân từ trường trung học như Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Tố Hữu, Nguyễn  Đình Thi…Sau này phổ biến là đại học, như Phạm Tiến Duật, Bằng Việt…Nhà trường là cái vườn ươm bởi những nhà giáo, người làm vườn ưu tú một thời, họ cũng say mê, cũng thượng văn học, văn nghệ, và cũng là những tác nhân giúp cho các tài năng sáng tạo nảy sinh, nảy nở.

Ngày nay những say mê một thời đã qua, đã mất, cảm hứng đã thay đổi, người đọc và người dạy đã thay đổi. Bây giờ là cảm hứng của cuộc sống bình thường, cái cao cả ít được mô tả, ít được nhắc đến mà văn nghệ thích thú nghiêng về tả cái tuyệt vọng, đau khổ, dục vọng, nghiêng về những mảnh vụn của cuộc đời được nhìn dưới cái nhìn hỗn độn gọi là “hậu hiện đại”…Có thể trong khi ngoáy nhìn lại quá khứ, trong đó có văn học, những học sinh ngày nay vẫn còn cảm xúc như họ đã từng nồng nhiệt say mê trước các bài hát một thời. Nhưng, khi bước ra cuộc đời ngày nay họ cũng dễ mất hướng và cũng dễ đồng cảm với cái nhìn tuyệt vọng, đau đớn của một số tác giả văn học. Thời đổi mới, thời hội nhập thị trường, thời toàn cầu hoá…có nhiều cơ hội phát triển cho nhiều thứ văn nghệ, cho nhiều sự tiếp nhận ảnh hưởng mà đối với ta được cho là mới lạ, hiện đại, tiên tiến đến từ các nước phát triển. Nhà giáo phải được đào tạo như thế nào, học sinh phải được học như thế nào để có đủ bản lĩnh, sức bền và chiều sâu văn hoá, vừa dân tộc, vừa phương Đông, vừa hiện đại để có thể đứng vững trong cơn bão táp, lốc xoáy của muôn vàn biến thiên hấp dẫn, mới lạ. Làm sao học được người để làm phong phú cho mình mà ta vẫn là ta, con người của Việt Nam tự hào, khí phách, thông minh, nhân ái. Đồng thời học được cái hay, cái tinh hoa của nhân loại. Đây là một vấn đề rất khó. Điều này liên quan đến cả một ước vọng: ta có thể còn nghèo, nhưng có một cuộc sống phong phú về tinh thần.

        4. Trở lại chủ đề của bài viết, tôi xin có một số đề nghị:

        – Tăng cường cho sự nghiệp giáo dục, trong đó có giáo dục làm người, giáo dục văn hoá, văn nghệ, lịch sử, khoa học xã hội và nhân văn, bằng tất cả sức mạnh của hệ thống chính trị, trong đó sự lãnh đạo của Đảng phải sâu sắc và ở tầm cao. Thường xuyên, Trung ương, Chính phủ định kỳ bàn về giáo dục, khoa học, khoa học xã hội và nhân văn, nắm thật sâu, thật chắc phương diện quan trọng này, xem nó là cái quyết định trước mắt và lâu dài, quyết định chiến lược, mất còn của dân tộc. Không thể khoán trắng, không thể chung chung, không thể chỉ lo kinh tế, vì đây là vấn đề con người. Mà con người ngày nay, của thời đại toàn cầu hoá thị trường thì đan xen nhiều mâu thuẫn, giằng xé, nghịch lý. Vì thế, phải chăm lo cho văn nghệ lành mạnh, tiến bộ, thổi được một nguồn cảm hứng lớn vào nhà trường, vào giáo viên, học sinh để tạo ra được những con người mà gia đình và đất nước mong muốn có. Chúng ta phải có một chiến lược huy động tinh hoa, trí tuệ nhân văn của dân tộc, phương Đông, toàn cầu vào việc tạo ra những con người như vậy.

        – Phải làm một cuộc cách mạng, một cuộc cải tổ trong giáo dục; phải thay đổi rất nhiều, có những cọ xát, đau đớn bởi nếu không làm thế thì chúng ta sẽ mất cả giáo dục lẫn văn hoá, văn nghệ. Cần phải làm lại những bước đi ban đầu chắc chắn, khoa học, không thể tự thoả mãn, tự che chắn cho những khuyết tật của cả một giai đoạn giáo dục. Giữ giáo dục đi đôi với giữ chế độ và giữ nước, mất giáo dục, mất văn hoá là mất nước. Tất nhiên, chúng ta phải làm từng bước, nhưng phải quyết tâm làm, phải hành động, phải khẩn trương, chính xác. Và như vậy, đòi hỏi phải có sự lãnh đạo sáng suốt, minh bạch, thu hút được trí tuệ của nhân dân, của nhiều nhà khoa học hoạt động xã hội.

        – Nghị quyết số 23 của Bộ Chính trị về Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới cần phải được quán triệt và giáo dục, vào nhà trường, vào từng đảng bộ, trong và ngoài giáo dục, vào việc biên soạn sách giáo khoa. Khi đi vào kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta càng cần phải kiên trì đi theo chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phát huy, giữ gìn truyền thống và bản sắc Việt Nam, bản chất xã hội chủ nghĩa trước những diễn biến phức tạp của tình hình mới.

        Ngày nay, người ta rất dễ nhận ra chiều hướng phi chính trị, phi tư tưởng của văn hoá – văn nghệ, đồng thời của giáo dục – đào tạo, do thái độ dao động, hữu khuynh, mất phương hướng trước tình hình trong nước và thế giới phức tạp, trước sự tiến công từ nhiều phía của các thế lực thù địch.

        Công tác chính trị – tư tưởng hiện nay không thể thực hiện đơn thuần bằng lý luận, lý thuyết, theo cách tuyên huấn, tuyên giáo như xưa. Bây giờ dân trí đã cao, giao lưu quốc tế đã rộng, công tác tuyên truyền không thể tiến hành như cũ, hô hào, cổ động đơn thuần. Chính trị – tư tưởng phải tham gia vào văn hoá – văn nghệ, văn hoá – văn nghệ phải thâm nhập vào giáo dục – đào tạo, tạo thành “bộ ba” – tam giác ỷ  giốc hoặc đồng bộ: ba cánh quân cùng tiến, ba mũi giáp công mới mong tạo được sức mạnh lớn, đứng vững và phản công các mũi tiến công đối địch.

        Công tác tư tưởng phải có lực lượng vật chất, đó là tổ chức của các chiến sĩ tư tưởng (gồm cả văn hoá – văn nghệ và giáo dục – đào tạo) thành mặt trận thứ hai gồm ba cánh quân như trên, bên cạnh mặt trận kinh tế.