Khám phá Đà Nẵng – Hội An với Tim Doling
(My friend Tim Doling, I’ve translated into Vietnamese some passages in your books, some about the cities Đà Nẵng, Hội An and Huế in Central Vietnam, so far away for me now)
Tim Doling và “Exploring Quảng Nam – Hội An, Mỹ Sơn, Đà Nẵng and Tam Kỳ” (Khám phá Quảng Nam – Hội An, Mỹ Sơn, Đà Nẵng và Tam Kỳ)
Tim Doling được đào tạo về chuyên ngành lịch sử Trung cổ, đã khởi đầu sự nghiệp trong lãnh vực văn hóa, điều hành các nhà hát và các trung tâm nghệ thuật ở Coleraine (Bắc Ireland), Horsham (Anh) và Hồng Kông, thực hiện các dự án văn hóa ở châu Á, châu Phi và châu Âu cho tổ chức UNESCO, Hội đồng Anh (British Council) và Visiting Arts. Từ thập niên 1990, anh sống chủ yếu ở Việt Nam, từ năm 1999 tới năm 2004 hợp tác với Bộ Văn hóa & Thông tin của Việt Nam để thực hiện dự án quản lý nghệ thuật ở 3 trường đại học tại Hà Nội do Quỹ Ford tài trợ. Vào thời gian này, anh cũng lập ra các trang web Visiting Arts Cultural Profile, trong đó trang Chân dung văn hóa Việt Nam, Cambodia và Lào rất được khen ngợi.
Tim Doling đã viết nhiều cuốn sách về Việt Nam như: “The railways and tramways of Vietnam” (Những đường sắt xe lửa và đưởng xe điện ở Việt Nam), “Exploring Hué” (Khám phá Huế), “Exploring Ho Chi Minh City” (Khám phá Thành phố Hồ Chí Minh) và các sách hướng dẫn du lịch về miền Tây Bắc và Đông Bắc Việt Nam.
“Exploring Quảng Nam – Hội An, Mỹ Sơn, Đà Nẵng and Tam Kỳ” do nhà xuất bản Thế Giới ấn hành năm 2020 đã ra mắt độc giả như một nỗ lực kích cầu trở lại du lịch ở Quảng Nam – Đà Nẵng sau nhiều tháng mọi sinh hoạt văn hóa và du lịch bị đình chỉ vì dịch bệnh Covid-19.
Phần mở đầu của cuốn sách hơn 500 trang này lược qua lịch sử của vùng đất Quảng Nam, xưa kia là tiểu quốc Amaravati của người Chiêm Thành, với kinh đô là Trà Kiệu và trung tâm tín ngưỡng ở Mỹ Sơn, một vương quốc phồn thịnh nhờ thương mại hàng hải. Khi xác lập chủ quyền trên vùng đất này vào cuối thế kỷ 16, các chúa Nguyễn đã sớm nhận ra và khai thác được tiềm năng của hải cảng Faifo (HộI An) của người Chiêm Thành trên sông Thu Bồn, có được nguồn thu lớn lao từ việc đánh thuế những tàu thuyền của nước ngoài để chinh phục và khai phá vùng đất phương Nam. Dinh trấn của các chúa Nguyễn ở Thanh Chiêm (ngày nay là Điện Bàn) là kinh đô thứ hai của triều Nguyễn, là nơi hoàng tử kế vị (con trai thứ sáu của Nguyễn Hoàng) tập sự cầm quyền và cũng là nơi các nhà truyền giáo của Dòng Tên sáng chế chữ quốc ngữ. Lúc ban đầu chỉ được coi như một cửa ngõ để vào hải cảng Faifo, đến thế kỷ 19, Đà Nẵng đã trở thành một hải cảng quan trọng vì hai con sông Cổ Cò và Thu Bồn đã bị nghẽn dòng do có quá nhiều bùn lầy. Đến năm 1835, hoàng đế Minh Mạng ra chỉ dụ chỉ cho phép các thuyền buôn của phương Tây cập bến Đà Nẵng và đến năm 1888, thành phố này đã trở thành nhượng địa của Pháp.
Tim Doling đã viết về việc thành lập thành phố Đà Nẵng:
“Đà Nẵng được thành lập
Sau cuộc chiến năm 1471 giữa Chămpa và Đại Việt, triều đình của vua Lê Thánh Tông đã tiến hành những bước để tổ chức lãnh thổ chinh phục được ở Thuận Hóa và Quảng Nam, khuyến khích nhiều người Việt từ Nghệ An và Thanh Hóa đến đây định cư. Trong số những lưu dân mới này có những người sẽ lập ra Đà Nẵng, những người sinh sống ở 5 xã – gọi là ngũ xã – gồm Hải Châu, Nại Hiên, Thạch Thang, Nam Dương và Phước Ninh, hình thành một khu vực hành chánh rộng lớn và một ngôi chợ lớn (gần chợ Hàn ngày nay) ở Hải Châu, trên bờ phía Tây của sông Hàn. Trong những năm sau đó, những vùng định cư mới đã hình thành trên bờ phía Đông của sông Hàn, tại An Hải và Phước Mỹ. Vùng đất này sẽ là một phần của huyện Điện Bàn, phủ Triệu Phong buổi đầu ở Thuận Hóa. Qua thời gian, các cư dân Đại Việt đã đặt lại theo tiếng Việt các địa danh của Chămpa đã có từ trước, trong đó có địa danh Đà Nẵng. Các nhà nghiên cứu cho rằng “Đà Nẵng” vốn là từ “Danak” trong tiếng Chăm có nghĩa là “sông rộng”. Dường như từ Đà Nẵng đã được sử dụng rộng rãi vào năm 1533, khi tác phẩm “Ô Châu Cận Lục” của Dương Văn An có nhắc tới một đền thờ ở “biển Đà Nẵng”. Hàn, tên gọi con sông chảy ngang qua Đà Nẵng, cũng bắt đầu có vào thời kỳ này, và các nhà nghiên cứu cho rằng những lưu dân Đại Việt đầu tiên đặt chân đến Đà Nẵng đã đặt tên con sông này theo tên của cửa biển Tu Tấn Hàn ở quê hương Thanh Hóa của họ. Đến thế kỷ 17, tên Cửa Hàn gần như đồng nhất với tên Đà Nẵng. Người ta cho rằng các nhà hàng hải phương Tây đã gọi Cửa Hàn là Tourane hay Turon, và về sau, người Pháp đã lấy tên này để đặt cho thành phố Đà Nẵng…” (Exploring Quảng Nam – Hội An, Mỹ Sơn, Đà Nẵng and Tam Kỳ, tr. 19, 20).
Tim Doling cũng viết về sự vươn lên của cảng thị Hội An: “Vào thời kỳ này, cảng cũ của Chămpa trên sông Thu Bồn cách Đà Nẵng 25 km về phía Đông Nam đã trở thành một trung tâm giao thương thu hút các thương nhân đến từ Trung Quốc, Ấn Độ và các nước Trung Đông. Tuy nhiên tiềm năng thật sự của cảng này với tính cách là một trung tâm giao thương hàng hải chỉ được nhận ra sau năm 1569, khi Quảng Nam được cai quản bởi vị chúa Nguyễn đầu tiên là Nguyễn Hoàng (1525-1613). Sau khi trở về Thanh Hóa để ra mắt vua Lê vào năm 1569, Nguyễn Hoàng được cử làm trấn thủ Quảng Nam thay thế viên quan Nguyễn Bá Quýnh. Vùng đất Thuận Quảng (ngày nay là các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế) của Nguyễn Hoàng tương ứng với lãnh thổ trước đây của Vương quốc Chămpa Amavarati. Việc cai quản Quảng Nam có ý nghĩa hệ trọng đối với Nguyễn Hoàng về nhiều mặt, không phải chỉ vì tầm quan trọng của vùng đất này về nông nghiệp: vùng đất Thuận Hóa vừa hẹp, vừa khô cằn, trong khi Quảng Nam là vùng đất màu mỡ hơn. Ngay từ đầu, Nguyễn Hoàng đã tổ chức chính quyền của mình dựa trên lực lượng quân sự, nhanh chóng xây dựng một đạo quân trên bộ và thuỷ quân. Ông vẫn bày tỏ lòng trung thành với chính quyền của chúa Trịnh ở Thăng Long, nhưng sau năm 1600, ông và con trai ông là Nguyễn Phúc Nguyên càng lúc càng xa cách triều đình của vua Lê – chúa Trịnh và tự xưng là những người lãnh đạo “Quảng Nam quốc”. Việc quân sự hóa chính quyền của chúa Nguyễn ở vùng đất được gọi là Đàng Trong từ thập niên 1620 đã tạo điều kiện cho vị chúa Nguyễn thứ hai là Nguyễn Phúc Nguyên cắt đứt mọi liên hệ với chúa Trịnh và bắt đầu một cuộc chiến kéo dài 50 năm với Đàng Ngoài của chúa Trịnh. Chi phí cho cuộc chiến khá cao, nhưng ngay từ buổi ban đầu, Nguyễn Hoàng đã nhận ra rằng ông có thể có một nguồn thu khá lớn từ việc đánh thuế các thuyền buôn đến cảng giao thương trên sông Thu Bồn mà ngày nay được gọi là Hội An, còn trước kia được người nước ngoài gọi là Faifo. Từ năm 1602, cảng của Sa Huỳnh và của người Chăm đã được gọi bằng những cái tên khác nhau, trong đó đáng kể nhất là Faifo và Hội An. Một số nhà nghiên cứu cho rằng tên Faifo có xuất xứ từ Hoài Phố được nhắc tới trong tác phẩm “Ô Châu Cận Lục” của Dương Văn An như là một trong 66 xã của huyện Điện Bàn. Một số nhà nghiên cứu khác lại cho rằng Faifo có xuất xứ từ việc mô tả hai phố của cộng đồng người Hoa và cộng đồng người Nhật vào tiền bán thế kỷ 16…” (Exploring Quảng Nam – Hội An, Mỹ Sơn, Đà Nẵng, tr. 20, 22, 23)
Thành phố Đà Nẵng qua flycam: https://youtu.be/CLF8t2AvvHQ
Phố cổ Hội An qua flycam: https://youtu.be/PLf2ErD2_X4
Ảnh: Tim Doling và tác phẩm “Exploring Quảng Nam – Hội An, Mỹ Sơn, Đà Nẵng and Tam Kỳ”