LÊ XUÂN THÔNG – ĐINH THỊ TOAN: Tư liệu văn bia Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng thời chúa Nguyễn

337

  

Tư liệu văn bia Phật Giáo Quảng Nam – Đà Nẵng                             thời chúa Nguyễn

 

        Văn bia là một loại di sản rất có giá trị về mặt sử liệu, giúp chúng ta nhận thức về quá khứ trên nhiều khía cạnh, bởi đôi khi không thể tìm thấy ở bất kì nguồn tư liệu nào khác. Với văn bia Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng thời chúa Nguyễn, giá trị đó càng trở nên đặc biệt, vì lẽ nó gần như là nguồn tư liệu quan trọng duy nhất để nghiên cứu Phật giáo trên vùng đất phía nam đèo Hải Vân này.

        Loại văn bia này hiện biết có số lượng không nhiều, gồm 13 đơn vị văn bản. Trong đó, có những trường hợp hai văn bản cùng tồn tại trên hai mặt của một bia, như bia chùa Linh Sơn, bia chùa Bảo Khánh. Sớm nhất là văn bia Ngũ Uẩn Sơn cổ tích Phật tịch diệt lạc ở động Vân Thông (Ngũ Hành Sơn), lập năm Tân Mùi – 1631.  Muộn nhất là văn bia chùa Lưu Linh, lập năm Bảo Thái thứ 3 – 1722.

        Điều đáng buồn là không phải tất cả những văn bia trên đều hiện tồn trên thực địa; số khác cũng đã bị mòn mờ, thậm chí không thể đọc được nữa. May thay, chúng đã được in rập thác bản do Viện Viễn Đông bác cổ Pháp thực hiện trước 1945, và nay được giới thiệu rộng rãi đến công chúng trong công trình đồ sộ Tổng tập thác bản văn khắc Hán Nôm xuất bản vào đầu những năm 2000.

        Phiên dịch, giới thiệu văn bia Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng thời chúa Nguyễn, ít nhiều đã nhận được sự quan tâm của học giới. Tuy nhiên, nó chưa thực sự mang đến cho người khai thác nguồn tư liệu chính xác, có độ tin cậy cao, do xảy ra một số lầm lẫn hoặc thiếu phần chữ Hán để đối chiếu, ngoại trừ hai văn bia Phổ Đà Sơn linh trung PhậtNgũ Uẩn Sơn cổ tích Phật tịch diệt lạc[1].

        Từ những trình bày trên, chúng tôi trong bài viết này sẽ giới thiệu toàn văn 11 đơn vị văn bia còn lại như là cách mang đến cho bạn đọc nguồn tư liệu quý, đồng thời góp phần bảo tồn một loại hình di sản đang có nguy cơ biến mất dần trước thử thách khắc nghiệt của tự nhiên và xã hội.

        Mỗi văn bia được giới thiệu gồm phần chữ Hán và phần dịch nghĩa. Những chữ không còn rõ, chúng tôi dùng kí hiệu “0”. Mỗi kí hiệu “0” tương ứng với một chữ. Những đoạn mất quá nhiều chữ và không ước đoán được số lượng chữ, chúng tôi để dấu “…”. Trình tự sắp xếp các văn bia theo thứ tự niên đại từ sớm đến muộn. Văn bia hiện còn trên thực địa, sẽ được ghi kèm địa chỉ đơn vị hành chính địa phương; văn bia chỉ còn thác bản, sẽ ghi nguồn từ bộ Tổng tập thác bản văn khắc Hán Nôm.

        1.Văn bia chùa Linh Sơn- mặt trước. Nguồn: Viện Cao học thực hành, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Viễn Đông bác cổ Pháp (2009), Tổng tập thác bản văn khắc Hán Nôm, Tập 21, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, tr.941.

        Chữ Hán:

靈 山 寺 碑

皇 上 萬 萬 歲 大 越 國 廣 南 處 禪 僧 范 公 朝 字 慧 林 德 見 往 古 跡 名 蓝 靈 山 寺 同 會 主 阮 氏 千 号 慈 有 并 仕 妮 發 彼 家 財 德 再 造 重 修 上 下 圓 成 又 買 寺 田 供 爲 三 宝 竪 立 石 碑 傳 之 後 代 并 文 名 功 德 回 向 三 宝 上 報 四 重 恩 下 济 人 及 後 修 造 資 作 善 同 生 西 天 境 界

三 宝 田 化 閨 社 同 京 田 一 畝 泡 檻 田 八 巢 錦 茘 社 泡 多 田 一 畝 二  溪  田 二 畝 耐 軒 社 會 主 阮 氏 千 号 慈 有 阮 青 遺 字 福 在 黎 氏 柴 号 慈 太 武 廷 宍 字 真 修 供 田 一 畝 六 化 閨 社 陳 福 才 裴 氏 萬 供 田 一 畝 海 洲 社 阮 文 福 字 慧 山 性 阮 氏 而 号 慈 玉 武 公 太 字 慧 山 平 范 氏 門 号 慈 良 供 田 一 畝 錦 茘 社 黎 公 紀 字 慧 山 定 武 氏 萬 供 田 五錦 茘 社 黎 佐 彰 字 慧 山 安 阮 氏 窣 号 慈 忍 供 田 一

陽 和 九 年 歲 次 癸 未 重 夏 節 吉 日 僧 字 慧 林 德 立 石 碑 鍳 傳 海 洲 社 黎 加 福 字 法 鉴 寫 記 功 德

        Dịch nghĩa:

        Bia chùa Linh Sơn

        Hoàng thượng vạn vạn tuế.

       Thiền tăng Phạm Công Triều tự Tuệ Lâm Đức ở xứ Quảng Nam, nước Đại Việt qua đây thấy cổ tích danh lam Linh Sơn tự, cùng với hội chủ Nguyễn Thị Thiên hiệu Từ Hữu/Hựu và các sãi vãi phát tâm đóng góp gia tài và công đức tái tạo trùng tu, sau khi việc viên thành lại mua ruộng cúng làm tam bảo, lập bia đá truyền việc này đến đời sau cùng với danh tính những người công đức, hồi hướng tam bảo, trên báo ân sâu, dưới giúp đỡ mọi người, sau nữa là góp phần tu tạo, làm nên nghiệp thiện, cùng sinh về tây thiên cảnh giới.

        Ruộng tam bảo: Ruộng Đồng Kinh ở xã Hóa Khuê điền 1 mẫu, ruộng Bàu Tràm 8 sào. Ruộng Bàu Đá ở xã Cẩm Lệ 1 mẫu 2 sào, ruộng Khe Cạn 2 mẫu. Hội chủ Nguyễn Thị Thiên hiệu Từ Hữu/Hựu, Nguyễn Thanh Di tự Phước Tại, Lê Thị Sài hiệu Từ Thái, Vũ Đình Minh tự Chân Tu ở xã Nại Hiên cúng ruộng 1 mẫu 6 sào. Trần Phước Tài, Bùi Thị Vạn ở xã Hóa Khuê cúng ruộng 1 mẫu. Nguyễn Văn Phước tự Tuệ Sơn Tính, Nguyễn Thị Nhi hiệu Từ Ngọc, Vũ Công Thái tự Tuệ Sơn Bình, Phạm Thị Môn hiệu Từ Lương ở xã Hải Châu cúng ruộng 1 mẫu. Lê Công Kỉ tự Tuệ Sơn Định, Vũ Thị Vạn ở xã Cẩm Lệ cúng ruộng 5 sào. Lê Tá Chương tự Tuệ Sơn An, Nguyễn Thị Tốt hiệu Từ Nhẫn ở xã Cẩm Lệ cúng ruộng 1 sào.

        Ngày tốt tháng 5 năm Quý Mùi niên hiệu Dương Hòa thứ 9[2] [1643].

        Tăng tự Tuệ Lâm Đức lập bia đá giám truyền. Lê Gia Phước tự Pháp Giám ở xã Hải Châu ghi chép công đức.

       

        2. Văn bia chùa Linh Sơn- mặt sau. Nguồn: Viện Cao học thực hành, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Viễn Đông bác cổ Pháp (2009), Tổng tập thác bản văn khắc Hán Nôm, Tập 21, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, tr.940.

Chữ Hán:

興 崇 佛 法

聖 主 無 量 壽

大 越 國 廣 南 處 奠 磐 府 和 荣 縣 錦 茘 社 僧 寺 賴 文 安 字 慧 明 斍 住 持 靈 山 寺 會 主 陶 氏 竹 號 妙 惠 裴 氏 德 号 妙 念 賴 葉 華 武 氏 樹 寺 本 道 十 方 功 德 同 會 善 緣 發 財 錢 一 百 貫 買 田 二 畝 坐 落 本 櫳 泡 廷 處 供 爲 三 寳 田 在 靈 山 寺 立 碑 流 傳 萬 代 继 賢 佛 道 又 願 廣 及 多 生 父 母 九 玄 七 祖 向 趨 極 樂 國 田 二 高 福 栘 處 壽 康 社 信 供 楊   文 厚 女 阮 氏 任 男 子 潘 文 0 等 有 心 分 私 田 坐 落 泡 檻 處 田 捌 高 陸 口 供 爲 三 寳 在 靈 山 寺 玆 供

慶 德 六 年 太 歲 甲 午 季 春 吉 日

Dịch nghĩa:

Hưng sùng phật pháp

Thánh chủ vô lượng thọ.

Tăng Lại Văn An, tự Tuệ Minh Quan, trú trì chùa Linh Sơn, Hội chủ Đào Thị Trúc hiệu Diệu Huệ, Bùi Thị Đức hiệu Diệu Niệm, Lại Diệp Hoa, Vũ Thị Thụ ở xã Cẩm Lệ, huyện Hòa Vang, phủ Điện Bàn, xứ Quảng Nam, nước Đại Việt cùng bổn đạo thập phương công đức đồng hội thiện duyên, xuất 100 quan tiền mua 2 mẫu ruộng, tọa lạc tại xứ Bản Lung Bàu Đình, cúng làm ruộng tam bảo tại chùa Linh Sơn, lập bi lưu truyền vạn đời, kế hiền phật đạo, lại nguyện cầu quảng đại chúng sinh cùng phụ mẫu, cửu huyền thất tổ được sinh về cực lạc quốc. Dương Văn Hậu và vợ Nguyễn Thị Nhậm tín cúng 2 sào ruộng tại xứ Phước Đa, xã Thọ Khang. Nam tử Phan Văn 0 có tâm phụng cúng 8 sào 6 mảnh tư điền tọa lạc xứ Bàu Tràm làm tam bảo tại chùa Linh Sơn. Nay cúng.

Ngày tốt tháng 3 năm Giáp Ngọ niên hiệu Khánh Đức thứ 6[3] [1654].

        3. Văn bia chùa Thủ Long (Phường Bình Hiên, Hải Châu, Đà Nẵng).

Chữ Hán:

立 石 碑 首 龍 寺

        奠 磐 府 新 福 縣 耐 軒 社 會 主 田 該 属 阮 文 珠 正 妻   黎 氏 生 該 合 將 臣 吏 萬 全 子 陳 有 礼 正 妻 胡 氏 唒 將 臣 吏 朝 坚 南 陳 有 紀 本 社 該 社 范 文 敖 並 全 社 等 裴 氏 呐

        昔 佛 在 地 虛 空 界 由 人 信 盡 能 求 窃 見 灵 異 形 狀 龍 首 玆 本 社 該 合 將 臣 吏 姓 陳 有 礼 發 心 慈 永 萬 幸 有 一 頃 祖 園 供 為 茗 蓝 玆 仝 社 構 為 新 寺 會 主 及 善 南 信 女 衆 道 興 崇 座 庭 并 0 0 0 0 鍾 閣 及 皷 楼 云 畢 誠 心 感 恪 業 彼 錢 財 買 得 各 所 田 供 為 三 宝 所 有 處 田 開 刻 于 左

        一 所 举 廷 處 田 一 畝 社 買 錢 四 十 貫

        一 所 汫 添 處 田 一 畝 社 買 錢 三 十 貫 又 田 一 畝 一 高 在 買 錢 二 十 五 貫

        十 方 信 供 0 鎮 守 防 陳 文 玄 妻 阮 氏 高 裴 有 泰 妻 吳 氏 東 武 廷 砲 妻 范 氏 俾 杜 氏 柳 號 妙 功 武 廷 權 阮 文 偃 范 氏 切 阮 文 曹 妻 黎 氏 0 阮 文 0 妻 阮 氏 善 裴 文 云 妻 裴 氏 低 裴 0 0 妻 裴 氏 沛 裴 氏 圭 阮 氏 元 黎 氏 嚴 阮 文 忌 裴 氏 戰 耐 軒 社 會 主 武 廷 砲 有 誠 心 並 妻 范 氏 俾 奉 供 田 一 畝 七 高 0 0 0 紹 凡 本 道 等 玆 日 甲 辰(戌) 年

信 供 三 宝 并 四 畝 捌 高 0 口 錢 一 百 貫 及 本 社 十 方 錢 六 拾 貫 等

        盛 德 五 年 四 月 初 一 日

        本 府 海 洲 社 黎 加 福 字 法 监 寫 刻

        Dịch nghĩa:

Dựng bia đá chùa Thủ Long.

        Chúng tôi gồm Hội chủ Điền, Cai thuộc Nguyễn Văn Châu và vợ là Lê Thị Sinh, Cai hợp tướng thần lại, tước Vạn Toàn tử Trần Hữu Lễ và vợ là Hồ Thị Dẫu, Tướng thần lại tước Triều Kiên nam Trần Hữu Kỷ, cai xã của bổn xã là Phạm Văn Ngao và Bùi Thị Nói cùng toàn xã Nại Hiên, thuộc huyện Tân Phước, phủ Điện Bàn.

        Xưa kia Phật ở cõi hư không mấy ai nhìn thấy, nay những người tín ngưỡng nơi quê hương thường nhìn trộm thấy vật linh dị hình trạng tựa đầu rồng hiện ra rất rõ. Với lòng vạn hạnh từ tâm, ngài Cai hợp tướng thần lại Trần Hữu Lễ phát tâm từ bi vạn hạnh cúng một khoảnh đất dùng làm vườn tổ để thành một danh lam. Nay bổn xã cùng xây dựng một ngôi chùa mới, các vị hội chủ cùng các thiện nam tín nữ, chúng đạo ra công góp sức xây dựng chùa gồm tòa đình, gác chuông, …, lầu trống, thành tâm cảm khác, lấy tiền mua một số sở ruộng cúng làm tam bảo. Các sở ruộng ở các xứ kê khai rõ như bên trái:

        Một sở ruộng ở xứ Cửa Đình gồm 1 mẫu, tiền mua 40 quan. Một sở ruộng ở xứ Giếng Thêm gồm 1 mẫu tiền mua 30 quan và 1 mẫu 1 sào tiền mua 25 quan.

        Thập phương tín cúng: 0 Trấn thủ phòng Trần Văn Huyền và vợ là Nguyễn Thị Cao, Bùi Hữu Thái và vợ là Ngô Thị Đông, Võ Đình Pháo và vợ là Phạm Thị Ti, Đỗ Thị Liễu hiệu Diệu Công, Vũ Đình Quyền, Nguyễn Hữu Yển, Phạm Thị Thiết, Nguyễn Văn Tào và vợ là Lê Thị 0, Nguyễn Văn 0 và vợ là Nguyễn Thị Thiện, Bùi Văn Vân và vợ Bùi Thị Đê, Bùi 0 0 và vợ Bùi Thị Phái, Bùi Thị Khuê, Nguyễn Thị Nguyên, Lê Thị Nghiêm, Nguyễn Văn Kị, Bùi Thị Chiến. Hội chủ Võ Đình Pháo ở xã Nại Hiên và vợ là Phạm Thị Tỉ thành tâm phụng cúng sở ruộng 1 mẫu 7 sào … Ngày nay, tức năm Giáp Thìn (Tuất) tín cúng tam bảo 4 mẫu 8 sào ruộng, 100 quan tiền. Thập phương bổn xã cúng 60 quan tiền.

        Ngày mồng 1 tháng 4 niên hiệu Thịnh Đức thứ 5 [1657]

        Lê Gia Phước, tự Pháp Giám, người xã Hải Châu viết.

        4. Văn bia chùa Minh Giác (Điện Thắng Bắc, Điện Bàn, Quảng Nam)

Bia là cột đá tiết diện hình chữ nhật. Khắc chữ hai mặt: trước và bên trái.

Chữ Hán:

Mặt trước:

明 覺 寺

惠 光 明 禪 師 碑 記

蒲 明 社 供 三 宝 田 一 畝 四 高

私 田 九 高 土 宅 七 高 一 畝 柒

Mặt trái:

三 宝 田 一 畝

歲 次 壬 子 年

碑 記

大 越 國 景 治 十 年 三 月 十 九 日

Dịch nghĩa:

Mặt trước:

Chùa Minh Giác

Bài kí trên bia của thiền sư Huệ Quang Minh

Xã Bồ Mưng cúng ruộng tam bảo 1 mẫu 4 sào

Tư điền 9 sào, thổ trạch 7 sào, 1 mẫu 7.

Mặt trái:

Ruộng tam bảo 1 mẫu.

Năm Nhâm Tý.

Bi kí.

Nước Đại Việt, ngày 19 tháng 3 năm Cảnh Trị thứ 10[4] [1672].

 

        5. Văn bia chùa Phổ Khánh(Ái Nghĩa, Đại Lộc, Quảng Nam)

Chữ Hán:

普 慶 寺

大 越 國 廣 南 處 奠 磐 府 安 農 縣 愛 義 社 普 慶 寺 明 奉 佛 會 主 黎 高 智 法 名 眞 詮 阮 氏 葉 號 妙 惠 有 造 買 私 田 在 羅 帶 社 坐 落 沙 庫  ? 二 處 共 田 五 畝 四  八 尺 供 為 三 寳 田

一 愛 義 社 官 員 全 社 等 有 施 鄰 處 公 田 三 畝 并 内 寺 圍 園 土 三  供 為 三 寳 得 便 供 養 以 尊 佛 法

永 治 三 年 歲 次 戊 午 季 夏 穀 日 立 碑

書 寫 黎 福 通 吕 有 泰

刊 匠 0 0 0 灌 溉 社

 

Dịch nghĩa:

Chùa Phổ Khánh

Chùa Phổ Khánh xã Ái Nghĩa, huyện An Nông, phủ Điện Bàn, xứ Quảng Nam, nước Đại Việt kính tỏ lòng tôn sùng Phật:

Hội chủ Lê Cao Trí, pháp danh Chơn Thuyên; (và) Nguyễn Thị Diệp, hiệu Diệu Huệ, có ruộng tư mua được tại hai xứ Sa Khố và Suối Giữa, thuộc xã La Đái gồm 5 mẫu 4 sào 8 thước đem cúng làm ruộng tam bảo.

Quan viên và toàn dân xã Ái Nghĩa có 3 mẫu ruộng công tại xứ Thi Lân cùng với 3 sào đất bên trong khuôn viên vườn chùa dâng làm của tam bảo để tiện việc cúng dường, tôn sùng Phật pháp.

Ngày lành tháng 6, năm Mậu Ngọ niên hiệu Vĩnh Trị  thứ 3  [1678] lập bia.

Bia

Người viết chữ: Lê Phúc Thông, Lã Hữu Thái

Thợ khắc: …Xã Quán Khái.

 

        6. Văn bia chùa Phú Thuận(Xã Đại Thắng, Đại Lộc, Quảng Nam)

Chữ Hán:

三 寳 證 明

大 越 國 廣 南 處 奠 磐 府 延 福 縣 富 順 社 奉 佛 造 立 碑 石 今 會 主 潘 時 定 字 如 達 黎 氏 生 號 妙 0 造 立 寺 一 座 田 五 高 柴 半 處 供 三 寳 以 尊 佛 法 内 本 道 潘 時 智 字 如 通 供 田 一 高 二 口 0 0 處 本 社 供 田 一 畝 二 高 旺 0 處 本 道 潘 福 長 字 0 0 潘 時 恩 潘 時 惠 信 女 陳 氏 荒 號 妙 秀 黎 氏 0 雍 氏 細 號 妙 明 潘 氏 的 號 妙 賢 欲 傳 造 寺 遺 畱 福 基 萬 世 阮 氏 寺 字 妙 高

天 運 庚 午 年 七 月 初 二 日 造 寺

Dịch nghĩa:

Tam Bảo chứng minh.

Xã Phú Thuận, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, xứ Quảng Nam, nước Đại Việt phụng thờ Phật tạo lập bia đá. Nay hội chủ Phan Thời Định tự Như Đạt, Lê Thị Sinh hiệu Diệu 0 tạo lập một ngôi chùa, cúng 5 sào ruộng tại xứ Thầy Bạn làm ruộng tam bảo để thể hiện tấm lòng tôn sùng Phật pháp.

Nội bản đạo Phan Thời Trí tự Như Thông cúng ruộng 1 sào 2 khẩu tại xứ 0 0. Bổn xã cúng 1 mẫu 2 sào ruộng tại xứ Vượng 0. Bổn đạo Phan Phước Trường tự 0 0, Phan Thời Ân, Phan Thời Huệ, tín nữ Trần Thị Hoang hiệu Diệu Tú, Lê Thị 0, Ung Thị Tế hiệu Diệu Minh, Phan Thị Đích hiệu Diệu Hiền muốn truyền tạo tự để lại nền phúc cho vạn đời. Nguyễn Thị Tự tự Diệu Cao.

Ngày mồng 2 tháng 7 năm Canh Ngọ [1690][5] lập chùa.

        7. Văn bia chùa Long Thủy (Duy Phước, Duy Xuyên, Quảng Nam)

Chữ Hán :

龍 水 寺 碑

蓋 聞 鷲 嶺 分 灯 而 令 光 熱 焰 莫 可 滕 記 自 至 初 祖 西 來 諸 祖 以 下 若 合 箱 節 昔 願 所 致 也 而 同 因 斯 施 主 業 世 修 功 勸 福 田 善 種 發 心 供 佛 及 僧 興 崇 三 寳 之 尊 廣 結 菩 提 之 果 尽 心 布 施 供 爲 常 住 之 田 晝 夜 香 灯 晨 昏 祝 聖 上 祈 國 界 安 寜 永 享 無 窮 之 福 次 祈 施 主 等 現 存 百 福 之 隆 後 日 蓮 花 之 會 仍 異 故 亡 夫 阮 文 榜 一 位 神 魂 祈 生 天 界 伏 願 九 玄 七 祖 共 起 蓮 臺

大 越 國 廣 南 處 奠 磐 府 新 福 縣 内 府 安 福 社 信 供 阮 伯 強 室 中 阮 氏 曰 供 田 參 高 二 口 施 主 張 氏 朋 法 名 法 林 供 田 壹 畝 观 音 0 0 買 供 私 田 本 社 一 高 信 供 鄧 伯 物 室 中 阮 氏 由 供 田 參 高 一 口 二 分 老 怒 五 口  和 一 口 信 供 阮 文 繡 室 中 阮 氏 昌 供 田 參 高 因 田 一 口 二 分 交 易 甲 全 四 口 三 寳 田 供 養 上 報 四 重 恩 下 济 三 重 苦 信 供 阮 文 扁 室 中 阮 氏 建 私 田 造 買 0 0 壹 高

正 和 二 十 三 年 潤 壬 午 孟 冬 穀 日 立

首 合 石 匠 春 禄 社 奉 刻

Dịch nghĩa :

Bia chùa Long Thủy

Từng nghe: Thứu Lĩnh chia đèn mà khiến sáng tỏ, chẳng thể ghi chép hết. Từ khi sơ tổ từ phía tây sang, các tổ truyền xuống đều hợp tương tiết, cùng dốc hết lòng phụng sự. Nay tín chủ thế nghiệp tu hành, muốn gieo trồng ruộng phúc, phát tâm cúng Phật và tăng, tôn kính hưng sùng tam bảo, rộng mở quả Bồ đề, bố thí hết lòng, cúng làm ruộng thường trú, đêm ngày đèn hương, sớm tối chúc thánh. Trên cầu đất nước bình yên, mãi hưởng phúc vô cùng. Lại nguyện cho các thí chủ còn phúc sâu dày, ngày sau gặp hội liên trì, cùng cầu vong chồng Nguyễn Văn Bảng sinh ở thiên giới. Phục nguyện cửu huyền thất tổ cùng lên liên đài.

Xã An Phước, huyện Tân Phước nội phủ phủ Điện Bàn, xứ Quảng Nam, nước Đại Việt. Nguyễn Bá Cường và vợ Nguyễn Thị Viết tín cúng ruộng 3 sào 2 khẩu. Thí chủ Trương Thị Bằng, pháp danh Lâm[6] cúng ruộng 1 mẫu.….Quan Âm mua cúng 1 sào tư điền tại bổn xã. Đặng Bá Vật, vợ là Nguyễn Thị Do tín cúng ruộng 3 sào 1 khẩu 2 phần. Lão Nộ 5 khẩu. Trùm Hòa 1 khẩu. Nguyễn Văn Tú và vợ Nguyễn Thị Xương tín cúng ruộng 3 sào. Giáp Toàn 4 khẩu. Cúng dường ruộng tam bảo, trên báo bốn ân sâu, dưới cứu giúp thoát khỏi ba nỗi khổ lớn. Nguyễn Văn Biên, vợ Nguyễn Thị Kiến tín cúng 1 sào tư điền.

Ngày tốt tháng 10 nhuận năm Nhâm Ngọ niên hiệu Chính Hòa thứ 23 [1702]. Thợ đá chức Thủ hợp xã Xuân Lộc phụng khắc.

        8. Văn bia chùa Bảo Khánh – mặt trước (Phường Thanh Hà, Hội An, Quảng Nam)

Chữ Hán:

寳 慶 寺 碑

佛 田 貳 畆 有 餘

蓋 聞 福 田 有 八 實 惟 名 寺 為 先 善 人 最 多 是 乃 崇 修 第 一 古 言 猶 在 慶 衍 常 存 歷 觀 古 跡 名 蓝 竊 見 寺 圖 寳 慶 祈 有 靈 禱 有 應 保 國 安 人 願 以 從 求 必 如 咸 遂 稱 心 樂 事 覩 玆 阮 姓 心 本 慈 悲 體 上 旨 喜 捨 善 緣 重 修 寺 宇 慕 佛 道 菩 提 啟 種 興 造 樓 臺 規 模 煥 新 制 度 儼 然 壮 嚴 道 是 基 仁 是 址 心 地 裁 培 善 為 户 德 為 門 福 根 種 就 殿 上 巍 峩 金 相 梵 宮 内 爍 如 來 佛 日 增 輝 年 年 祝 皇 圖 鞏 固 法 輪 常 轉 日 日 扶 帝 道 遐 昌 功 成 福 等 河 沙 善 報 名 銘 石 皷 銘 曰 家 傳 積 善 心 發 菩 提 功 成 正 果 壽 域 咸 济 度 留 苖 裔 名 勒 炤 後 0 窮 歲 萬 福 等 天 霽

會 主 阮 文 田 字 道 山 范 氏 文 號 慈 圓 前 供 後 遺 阮 有 材 字 惠 道 明 比 丘 具 氏 玉 璟 號 慈 芳 比 丘 尼 信 供 阮 文 奎 字 福 祥 阮 氏 惠 號 慈 誠 0 0 0 0 0 0 阮 文 洪 枚 氏 頓 號 慈 桂 阮 全 龍 字 道 常 阮 文 公 阮 有 世 字 道 ? 靖 黎 氏 廣 號 妙 智 范 氏 賢 阮 氏 猶 皐 氏 玉 奔 黄 氏 養 號 慈 明 陳 氏 沐 阮 文 饒 黎 0 0 阮 文 卿 字 福 全 范 氏 珠 號 妙 印 黎 氏 巴 號 慈 愛 阮 有 德 字 福 度 黎 文 衡 字 福 綏 范 登 科 字 法 信 黎 文 安 黎 “…”[7] 胡 氏 烈 號 妙 敬 文 氏 谷 號 慈 恩 阮 氏 艮 號 慈 奚 黎 氏 景 裴 公 使 阮 福 壽 字 “…”[8] 阮 全 明 字 道 史 阮 文 橫 字 福 量 胡 氏 情 號 慈 定 范 文 通 阮 氏 上 叚 氏 蓮 號 0 0 阮 有 壽 賴 氏 貴 枚 氏 桂 黎 氏 通 阮 氏 棑 號 妙 敬 范 氏 武 號 慈 忍 阮 氏 纸 號 慈 香 賴 文 湾 陳 氏 座 武 文 儒 黎 0 0 黎 文 明 段 曰 創 阮 氏 鍾 裴 文 情 黎 氏 松 枚 氏 茂 黎 文 番 字 福 輝 阮 氏 堆 號 慈 分 黎 福 良 鄭 元 寅 鄧 氏 柳 阮 氏 蘭 號 慈 柳 阮 全 通 字 道 成 阮 全 智 字 道 能 尊 氏 味 阮 氏 潭 號 妙 道 枚 文 壽 黎 氏 三0 0 0 0 0 0.

Dịch nghĩa:

Bia chùa Bảo Khánh

Phật điền hơn 2 mẫu.

Từng nghe ruộng phước mang lại tám điều lợi ích thiết thực, mà sự tồn tại của chùa là trước tiên, do đó bậc thiện nhân luôn tận lực để sùng tu. Lời xưa vẫn còn đó, thường tồn dài lâu cùng cổ tích danh lam. Trộm thấy, tự đồ Bảo Khánh cầu hữu linh, đảo hữu ứng, bảo quốc an nhân, nguyện theo cầu tất đều được như ý, tâm vui  vẻ, việc vẹn toàn. Nay, họ Nguyễn tâm vốn từ bi, bề trên có chỉ hỷ xả thiện duyên, trùng tu tự vũ, mộ Phật đạo bồ đề, khởi dựng hưng tạo lâu đài quy mô, đổi thay chế độ, nghiễm nhiên tráng nghiêm. Đạo là móng, nhân là nền, bồi đắp tâm tính. Thiện là nhà, đức là cửa, gầy dựng rễ phước. Xem thấy điện thượng nguy nga, phạn dinh rực rỡ, bên trong tượng Như Lai lấp lánh chói sang, Phật nhật tăng huy. Kính chúc hoàng đồ vững bền, pháp luân thường chuyển; đế đạo mãi sáng, công thành phước đẳng, thiện báo vô cùng, danh khắc bia đá. Minh viết:

Nếp nhà tích thiện

Tâm phát bồ đề

Công thành chính quả

Trợ giúp nơi nơi

Con cháu hưởng nhờ

Danh khắc lưu chiếu

Đi cùng tháng năm

Khắp nơi hưởng phước.

Hội chủ Nguyễn Văn Điền tự Đạo Sơn. Phạm Thị Văn, hiệu Từ Viên trước cúng sau là di chúc lại. Nguyễn Hữu Tài, tự Huệ Đạo Minh tì kheo. Chân Thị Ngọc Cảnh, hiệu Từ Phương tì kheo ni. Tín cúng Nguyễn Văn Khuê, tự Phước Tường. Nguyễn Thị Huệ, hiệu Từ Thành. … Nguyễn Văn Hồng. Mai Thị Đốn, hiệu Từ Quế. Nguyễn Kim Long, tự Đạo Thường. Nguyễn Văn Công. Nguyễn Hữu Thế, tự Đạo Đàn Tịnh. Lê Thị Quảng, hiệu Diệu Trí. Phạm Thị Hiền. Nguyễn Thị Do. Cao Thị Bôn. Hoàng Thị Dưỡng hiệu Từ Minh. Trần Thị Mộc. Nguyễn Văn Nhiêu. Lê 0 0. Nguyễn Văn Khanh, tự Phước Toàn. Phạm Thị Châu hiệu Diệu Ấn. Lê Thị Ba hiệu Từ Ái. Nguyễn Hữu Đức tự Phước Độ. Lê Văn Hành tự Phước Thỏa. Phạm Đăng Khoa tự Pháp Tín. Lê Văn An. Lê … Hồ Thị Liệt hiệu Diệu Kính. Văn Thị Cốc hiệu Từ Ân. Nguyễn Thị Cấn hiệu Từ Kê. Lê Thị Cảnh. Bùi Công Sứ. Nguyễn Phước Thọ tự … Nguyễn Toàn Minh tự Đạo Sứ. Nguyễn Văn Hoành tự Phước Lượng. Hồ Thị Tình hiệu Từ Định. Phạm Văn Thông. Nguyễn Thị Thượng. Giả Thị Liên hiệu 0 0. Nguyễn Hữu Thọ. Lại Thị Quý. Mai Thị Quế. Lê Thị Thông. Nguyễn Thị Đào, hiệu Diệu Kính. Phạm Thị Vũ, hiệu Từ Nhẫn. Nguyễn Thị Chỉ, hiệu Từ Hương. Lại Văn Loan. Trần Thị Tòa. Vũ Thị Nho. Lê 0 0. Lê Văn Minh, Đoàn Viết Sáng, Nguyễn Thị Chung, Bùi Văn Tình. Lê Thị Tùng. Mai Thị Mậu. Lê Văn Phan tự Phước Huy. Nguyễn Thị Đôi hiệu Từ Phân. Lê Phước Lương. Trịnh Nguyên Dần. Đặng Thị Liễu. Nguyễn Thị Lan hiệu Từ Liễu. Nguyễn Toàn Thông, tự Đạo Thành. Nguyễn Toàn Trí, tự Đạo Năng. Tôn Thị Mùi. Nguyễn Thị Đàm hiệu Diệu Đạo. Mai Văn Thọ. Lê Thị Tam ….

        9. Văn bia chùa Bảo Khánh – mặt sau (Phường Thanh Hà, Hội An, Quảng Nam)

Chữ Hán:

青 龍 寳 慶 寺

蓋 聞 福 田 信 供 范 慈 信 字 浄 幸 佛 田 陸 畝 參 高 有 餘 并 土 等 頃 坐 落 泡 幼 坊 溪 水 處 津 0 0 陳 氏 得 買 私 田 坐 落 經[9][10] 處 内 簿 0 0 社 田 壹 畝 參 高 有 餘 東 近 小 溪 西 近 公 田 良 洲 社 南 北 近 私 田 妑 0 玆 陳 氏 得 供 為 常 住 三 宝 在 寳 慶 寺 如 本 族 孫 姪 不 得 争 阻 玆 碑

永 盛 拾 柒 年 貳 月 初 參 日

正 和 萬 萬 年 歲 次 丙 子 四 月 十 六 日 碑

Dịch nghĩa:

Thanh Long Bảo Khánh tự

Từng nghe ruộng phước tín cúng: Phạm Từ Tín, tự Tịnh Hạnh tín cúng Phật điền hơn 6 mẫu 3 sào cùng với các khoảnh đất tọa lạc tại Tân 0, xứ Khe Thủy, phường Bàu Ấu. Trần Thị Đắc mua hơn 1 mẫu 3 sào tư điền tọa lạc tại xứ Kênh Tắt, thuộc xã … Đông gần khe nước nhỏ, tây gần công điền xã Lương Châu, nam bắc gần tư điền bà 0. Nay Trần Thị Đắc cúng làm thường trú tam bảo tại chùa Bảo Khánh. Cháu chắt trong bổn tộc không được tranh giành cản trở. Nay lập bia.

Ngày mồng 3 tháng 2 năm Vĩnh Thịnh thứ 17 [1721]

Ngày 16 tháng 4 năm Bính Tý niên hiệu Chính Hòa [1696].

        10. Văn bia chùa Thái Bình.Error! Bookmark not defined. Nguồn: ViệnCao học thực hành, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Viễn Đông bác cổ Pháp (2009), Tổng tập thác bản văn khắc Hán Nôm, Tập 13, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, tr.626.

Chữ Hán:

太 平 寺 石 碑

蓋 聞 佛 有 三 玄 能 救 群 生 之 衆 人 存 八 雅 究 知 生 死 之 徒 昔 本 師 和 尙 福 建 之 省 嗣 進 朋 教 典 南 邦 之 間 二 十 四 歲 乃 齋 志 不 倦 教 化 戒 子 三 千 0 稽 首 其 伏 歸 命 造 設 寺 庵 山 水 養 閒 名 號 南 老 尊 和 尙 年 高 德 仲 道 通 西 域 仍 高 僧 不 期 六 十 三 脫 往 西 方 境 界 傳 至 嗣 戒 子 衆 孫 賴 供 懇 賜 朱 批 以 為 香 火 永 傳 三 寳 萬 代 流 芳 所 有 田 土 各 物 某 陳 于 石 碑 一 三 寳 經 律 法 器 全 0 并 田 土 牝 牡 牛 由 臨 濟 正 宗 九 代 大 和 尙 刘 真 頴 造 買 次 各 家 信 供 蒙 嶺 社 田 土 五 畝 六 高 養 蒙 社 田 十 畝 二 高 罷 隖 西 田 土 三 畝 二 高 冠 慨 社 田 五 高 新 安 社 田 一 畝 雲 窟 社 土 五 高 化 閨 東 社 田 一 畝 七 高 會 統 供 婆 多 處 田 七 高 德 賢 王 凖 租 稅 田 十 一 畝 德 義 王 凖 租 稅 田 十 二 畝 當 今 國 王 供 三 九 十 二 貫 五 陌 伏 願 皇 圖 鞏 固 帝 道 遐 昌 佛 日 增 輝 法 輪 常 轉 風 調 雨 順 天 下 太 平

永 盛 十 七 年 歲 次 辛 丑 七 月 十 一 日 戒 子 阮 福 安 法 名 如 明 立 碑

Dịch nghĩa:

Bia đá chùa Thái Bình

Từng nghe: Phật có tam đàn để cứu rỗi chúng sinh, người có bát nhã để xét biết con đường sinh tử. Xưa bổn sư hòa thượng từ tỉnh Phúc Kiến, dùng giáo điển sang đến nước Nam giáo hóa, 24 năm kiên trì chẳng mệt mỏi, giáo hóa được 3 ngàn giới tử dập đầu trước ngài quy mệnh. Ngài tạo dựng am chùa, dưỡng nhàn giữa chốn nước non, danh hiệu là Nam Lão tôn hòa thượng, tuổi cao đức trọng, đạo thông Tây Vực. Nhưng cao tăng chẳng hẹn mà 63 tuổi đã thoát vãng tây phương cảnh giới, truyền đến đời sau. Giới tử, chúng tôn phụng cúng ngài, khẩn xin ban châu phê để làm hương hỏa, thừa truyền tam bảo, lưu lại tiếng thơm vạn đời. Ruộng đất phụng cúng các nơi kê rõ trong bia đá. Đời thứ 9 phái Lâm Tế chánh tông là đại hòa thượng Lưu Chân Dĩnh mua cúng tam bảo kinh luật pháp khí toàn 0 cùng bò và ruộng đất. Các nhà tín cúng: Xã Mông Lãnh ruộng đất 5 mẫu 6 sào. Xã Dưỡng Mông ruộng 10 mẫu 2 sào. Bãi Ổ Tây ruộng đất 3 mẫu 2 sào. Xã Quan Khái ruộng 5 sào. Xã Tân An ruộng 1 mẫu. Xã Vân Quật đất 5 sào. Xã Hóa Khuê Đông ruộng 1 mẫu 7 sào. Hội Thống cúng ruộng 7 sào ở xứ Bà Đa. Đức Hiền Vương chuẩn tô thuế 11 mẫu ruộng. Đức Nghĩa Vương chuẩn tô thuế 12 mẫu ruộng. Đương kim Quốc Vương cúng 39 tiền 12 quan 5 mạch. Cúi nguyện: Hoàng đồ vững bền, đế đạo hưng thịnh dài lâu, Phật nhật tăng huy, pháp luân thường chuyển, mưa thuận gió hòa, thiên hạ thái bình.

Ngày 11 tháng 7 năm Tân Sửu niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 17[11] [1721].

 Giới tử Nguyễn Phúc An pháp danh Như Minh lập bia.

        11. Văn bia chùa Lưu Linh. Nguồn: ViệnCao học thực hành, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Viễn Đông bác cổ Pháp (2009), Tổng tập thác bản văn khắc Hán Nôm, Tập 21, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, tr.384.

Chữ Hán:

葢 聞 天 地 未 主 前 豈 自 然 而 不 動 阴 阳 之 判 後 從 氣 化 以 打 開 何 為 無 物 而 生 謂 是 有 形 皆 坏 心 性 者 從 何 而 得 魂 魄 者 這 個 而 來 今 於 盘 古 為 先 傳 至 三 皇 五 帝 夏 商 继 世 周 滅 秦 称 自 此 而 流 震 旦 漢 自 摩 勝 靈 帝 建 梵 宇 于 宮 中 良 君 造 之 九 十 九 寺 恩 沾 九 有 德 脫 三 途 國 中 有 三 教 之 紀 綱 人 中 有 三 皈 之 正 信 寿 增 有 益 福 报 無 分 事 設 于 今 法 依 於 古 即 有 大 越 國 廣 南 處 升 華 奠 盤 二 府 各 社 村 坊 玆 在 地 分 東 番 社 鳩 集 善 人 良 朋 本 族 缁 白 男 女 衆 等 發 財 出 力 大 0 功 勲 重 新 梵 宇 以 莊 嚴 造 買 供 田 而 長 利 恐 傳 世 跡 建 立 石 牌 永 作 後 来 以 資 功 德 應 質 禅 師 法 名 泳 能 范 文 貴 泳 質 鄧 文 楚 泳 继 阮 得 貴 泳 爵 枚 文 隆 海 勝 陳 貴 士 心 富 枚 文 䋦 泳 利 黄 文 椰 黎 文 秋 阮 進 宝 阮 得 位 尹 文 福 黎 功 花 枚 文 幸 陳 有 恩 鄧 文 月 陳 文 影 胡 文 書 黄 文 眉 泳 通 黄 德 黄 陳 文 宣 黄 文 魯 高 文 席 阮 文 断 陳 文 收 黄 高 才 黎 文 朋 阮 氏 鸾 泳 翠 阮 氏 謨 泳 式 范 氏 艶 黎 氏 宣 蔡 氏 峩 潘 氏 貼 文 氏 爫 阮 氏 哀 尹 氏 塔 潘 氏 軒 陳 氏 後 胡 氏 曾 裴 氏 斬 黎 氏 依 泳 派 丁 氏 代 潘 氏 清 阮 氏 袍 泳 長 圓 痒 沙 門 法 名 性 禪 范 文 幸 海 曦 枚 文 五 陳 文 清 泳 性 陳 文 孝 陳 文 省[12] 陳 文 仁 阮 氏 進 海 才 阮 氏 真 泳 直 孫 氏 仁 泳 義 潘 氏 敬 泳 成 胡 氏 書 胡 氏 唉 内 本 道 并 十 方 造 大 洪 鍾 壹 口 及 造 買 三 宝 田 壹 畝 内 黄 氏 子 泳 能 供 三 宝 田 壹 畝 貳 高 大 銅 鍋 壹 口

保 泰 三 年 六 月 吉 日 立

Dịch nghĩa:

Từng nghe: Trước khi thiên địa chưa có chủ, tự nhiên chẳng phải bất động, tự phân chia âm dương, rồi sau theo khí hóa để đả khai, sao có thể không có vật gì mà sinh ra được cái gọi là hữu hình, hư hoại tâm tính, rồi theo đó mà có được hồn phách. Từ xưa đến nay, từ Bàn Cổ truyền đến Tam Hoàng Ngũ Đế, Hạ Thương kế thế, Chu diệt Tần xưng, từ đó mà lưu chấn đến Hán. Từ Ma Thắng Linh Đế xây dựng chùa chiền trong chốn cung cấm, bậc lương quân tạo được 99 ngôi chùa, ân đức thấm nhuần dài lâu, giải thoát chúng sinh khỏi chốn tam đồ. Trong nước có kỉ cương tam giáo, người có chánh tín tam quy, thọ tăng hữu ích, phúc báo vô phần. Đến hôm nay, pháp vẫn như xưa, tức có các xã phường hai phủ Thăng Hoa, Điện Bàn, xứ Quảng Nam, nước Đại Việt tại địa phận xã Đông Phan cưu tập thiện nhân, lương bằng, bổn tộc, sư sãi, nam nữ chúng đẳng phát tài xuất lực, huân công trùng tân chốn phạn vũ, khiến chùa trở nên trang nghiêm, lại mua cúng ruộng để làm lợi dài lâu. Sợ dấu tích truyền thế mai một nên kiến lập bia đá để lại đời sau, biểu dương công đức.

Ứng Chất thiền sư pháp danh Vịnh Năng, Phạm Văn Quý Vịnh Chất, Đặng Văn Sở Vịnh Kế, Nguyễn Đắc Quý Vịnh Tước, Mai Văn Long Hải Thắng, Trần Quý Sĩ Tâm Phú, Mai Văn Mối Vịnh Lợi, Hoàng Văn Gia, Lê Văn Thu, Nguyễn Tiến Bảo, Nguyễn Đắc Vị, Doãn Văn Phúc, Lê Công Hoa, Mai Văn Hạnh, Trần Hữu Ân, Đặng Văn Nguyệt, Trần Văn Ảnh, Hồ Văn Thư, Hoàng Văn My Vịnh Thông, Hoàng Đức Hoàng, Trần Văn Tuyên, Hoàng Văn Lỗ, Cao Văn Tịch, Nguyễn Văn Đoạn, Trần Văn Thu, Hoàng Cao Tài, Lê Văn Bằng, Nguyễn Thị Loan Vịnh Thúy, Nguyễn Thị Mô Vịnh Thức, Phạm Thị Diễm, Lê Thị Tuyên, Thái Thị Nga, Phan Thị Thiếp, Văn Thị Làm, Nguyễn Thị Ai, Doãn Thị Tháp, Phan Thị Hiên, Trần Thị Hậu, Hồ Thị Tằng, Bùi Thị Trảm, Lê Thị Y Vịnh Phái, Đinh Thị Đại, Phan Thị Thanh, Nguyễn Thị Bào Vịnh Trường, Viên Dương Sa môn pháp danh Tính Thiện, Phạm Văn Hạnh Hải Hy, Mai Văn Ngũ, Trần Văn Thanh Vịnh Tính, Trần Văn Hiếu, Trần Văn Tỉnh, Trần Văn Nhân, Nguyễn Thị Tiến Hải Tài, Nguyễn Thị Chơn Vịnh Trực, Tôn Thị Nhân Vịnh Nghĩa, Phan Thị Kính Vịnh Thành, Hồ Thị Thư, Hồ Thị Hãy.

Bổn đạo cùng thập phương tạo 1 quả đại hồng chung, đồng thời mua 1 mẫu ruộng làm của tam bảo. Hoàng Thị Tử hiệu Vịnh Năng cúng 1 mẫu 2 sào ruộng làm tam bảo điền và 1 nồi đồng.

                               Lập ngày tốt tháng 6 năm Bảo Thái thứ 3 [1722]./.

________________________________

[1] Văn bia Phổ Đà Sơn linh trung Phật được giới thiệu trong sách Cơ sở ngữ văn Hán Nôm, Tập IV, do Lê Trí Viễn chủ biên, Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành tại Hà Nội, năm 1987; còn Ngũ Uẩn Sơn cổ tích Phật tịch diệt lạc được Đinh Thị Toan giới thiệu trên Nghiên cứu lịch sử xứ Quảng, Số 01, tr.33-35, năm 2015.

[2] Không hiểu sao ở đây lại xuất hiện niên hiệu Dương Hòa? Lịch sử cho biết lúc này đang là thời kì trị vì của vua Lê Thần Tông, niên hiệu Đức Long (1629 – 1643). Tháng 10 năm Quý Mùi (1643), mới nhường ngôi cho con là Lê Chân Tông. Sau, Lê Chân Tông đổi niên hiệu là Phúc Thái. Việc sai khác về niên hiệu đã và sẽ còn gặp nhiều trong các tài liệu đương thời thuộc xứ Đàng Trong. Nguyên nhân, có lẽ là do sự cách biệt về địa lí và bối cảnh chính trị đất nước.

[3] Thực ra đây đã là niên hiệu Thịnh Đức thứ 2.

[4] Thực ra đây đã là niên hiệu Dương Đức năm thứ nhất. Cảnh Trị là niên hiệu vua Lê Huyền Tông (1662 – 1671) chỉ tồn tại 9 năm, từ 1663 đến 1671.

[5] Năm Công nguyên là do chúng tôi suy đoán dựa vào nội dung văn bản và phong cách nghệ thuật văn bia.

[6] Không hiểu vì sao pháp danh người này chỉ có mỗi chữ “Lâm”, có thể do khắc thiếu chữ!

[7] Mất 2 dòng, khoảng 16 chữ.

[8] Mất 2 dòng, khoảng 12 chữ.

[9] Nguyên văn có thêm bộ “thủy” 氵phía trước

[10] Nguyên văn có thêm bộ “thủy” 氵phía trước

[11] Sự thật niên hiệu Vĩnh Thịnh của vua Lê Dụ Tông (1705-1729) chỉ tồn tại 16 năm, tức đến năm 1720 mà thôi. Năm 1721 đã là năm Bảo Thái thứ nhất.

[12] Nguyên văn có thêm bộ “khẩu” phía trước