Cao Huy Thuần
(Người dịch: Nguyễn Thuận) [1]
GIA TÔ GIÁO VÀ CÔNG CUỘC XÂM CHIẾM NAM KỲ
Khởi đầu, cuộc viễn chinh Nam kỳ chỉ là một biểu dương lực lượng nhằm uy hiếp và buộc triều đình Huế phải chấp nhận nguyên tắc tự do truyền giáo. Rồi do tình thế, cuộc viễn chinh trở thành giai đoạn đầu của một cuộc chiếm đóng thuộc địa lâu dài. Nhưng các Toàn quyền đầu tiên của “Nam kỳ thuộc Pháp”, trong khi theo đuổi mục đích thực dân, vẫn không quên mục tiêu tôn giáo ban đầu: họ ước mong biến thuộc địa giàu đẹp này thành một đế quốc Gia Tô mạnh mẽ ở Viễn Đông. Họ xác nhận rằng người Pháp không thể làm gì tốt đẹp và vững chắc ở Nam kỳ nếu không biến nó thành một xứ Gia Tô bằng cách áp dụng chặt chẽ chính sách đồng hóa.
CUỘC VIỄN CHINH NAM KỲ: MỘT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO
Đêm 31 tháng 8 năm 1858, một hạm đội do Đô đốc Rigault de Genouilly chỉ huy xuất hiện trước căn cứ Đà Nẵng. Ngày 1 tháng 9 năm 1858, viên chỉ huy này, sau khi buộc các quan Việt Nam phải giao thành lũy phòng ngự cho ông trong vòng 2 giờ, đã ra lệnh cho liên quân Pháp – Tây Ban Nha đổ bộ. Sau một trận đánh khá dữ dội, thành lũy bị tràn ngập và bị chiếm. Cuộc đổ bộ này mở một giai đoạn mới trong lịch sử Việt Nam, giai đoạn thực dân thống trị. Chắc hẳn Napoléon III đã nghĩ đến các khía cạnh chiến lược, kinh tế và thương mại khi quyết định thực hiện cuộc biểu dương hải quân này tại Đà Nẵng. Ý tưởng có được một điểm tựa hải quân ở Viễn Đông đã được Guizot đưa ra; từ lâu Pháp đã hiểu sự cần thiết phải có trong vùng biển Việt Nam một cảng tiếp liệu, sửa chữa và ẩn trú cho tàu bè của mình [63] . Các bận tâm kinh tế trước đây đã thúc đẩy các cường quốc Tây phương can thiệp vào Trung Quốc cũng có một vai trò trong vấn đề Việt Nam; chính trong mối liên hệ với vấn đề Trung Quốc mà Napoléon III đã lấy quyết định trên vấn đề Việt Nam[64] . Việc hạm đội của Rigault de Genouilly đã tham chiến bên cạnh lực lượng Anh trong các trận chiến ở Trung Quốc – chiến tranh chấm dứt với hiệp ước Thiên Tân ngày 27 tháng 6 năm 1858 – cho thấy bận tâm ấy. Thật vậy, vào thời đó, vấn đề mở cửa các thị trường ở Viễn Đông trở nên ngày càng rõ nét dưới sức ép của chủ nghĩa tư bản sơ khai. Tuy vậy không thể nói rằng Napoléon III đã có một mục tiêu thuộc địa rõ rệt khi phái Rigault de Genouilly đến Đà Nẵng. Đúng hơn, ông ta đã lấy quyết định đó dưới ảnh hưởng của tình hình chính trị trong nước. Muốn thiết lập một chế độ độc tài, Napoléon III cần có các thành công quân sự hầu vuốt ve tự ái dân tộc, đồng thời cho phép ông tưởng thưởng quân đội và thăng chức những sĩ quan mà ông muốn bảo đảm sự trung thành. Mặt khác, Napoléon III dựa vào đảng Thiên Chúa để cai trị. Đảng này ủng hộ ông trong những năm đầu Đế chế, nhưng sau đó, vấn đề Rô-ma khiến những người Thiên Chúa xa ông: họ sợ rằng chủ trương thống nhất nước Ý mà ông bảo trợ sẽ đem lại những hậu quả tai hại cho uy quyền của Giáo hoàng. Chính vì để kéo lại những người Thiên Chúa đó mà Napoléon III muốn làm thỏa mãn họ bằng cách hỗ trợ những đòi hỏi của các phái bộ truyền giáo ở Viễn Đông, củng cố vị thế truyền thống của nước Pháp “trưởng nữ của Giáo hội”, nâng cao uy danh của Hoàng đế trong mắt những người bảo thủ và người Thiên Chúa, như một vị vua bảo vệ quyền lợi của con chiên. Các bận tâm này là rõ ràng nhất trong đầu của Napoléon III. Vì vậy, ông rất nhạy cảm đối với các vận động và thỉnh nguyện mà những giáo sĩ thừa sai đã đệ đạt lên ông. Điều gì khác chỉ là những ý tưởng mơ hồ của ông, sự mù tịt hoàn toàn của các bộ trưởng thời ấy về một xứ mà lúc đó người Pháp gọi là Cochinchine. Điều này phản ánh rõ trong các chỉ thị mà Napoléon III gởi cho Rigault de Genouilly.
CÁC VẬN ĐỘNG CỦA NHỮNG GIÁO SĨ THỪA SAI BÊN CẠNH NAPOLÉON III
Khởi đầu cho cuộc “biểu dương” hải quân nói trên, được quyết định với sự đồng thuận của chính phủ Tây Ban Nha, là những vận động mạnh mẽ của các thừa sai bên cạnh Hoàng đế cũng như bên cạnh sứ bộ Pháp ở Trung Quốc. Các đại diện của Pháp ở Trung Quốc, theo lời kêu gọi của những thừa sai, luôn luôn yêu cầu can thiệp vào Việt Nam. Về vấn đề này, Đặc phái viên ngoại giao De Bourboulon đã viết thư hai lần, vào tháng 8 và 9 năm 1852, cho Bộ trưởng Ngoại giao. Năm 1855, De Courcy, bí thư của sứ bộ Pháp ở Trung Quốc, theo lệnh của Hoàng đế muốn tập trung các tài liệu về các phái bộ truyền giáo ở Đông Dương, đã tiếp xúc với các Khâm sai tòa thánh ở Xiêm (nay là Thái Lan), Việt Nam và Cam Bốt; chính từ những tin tức do các vị này cung cấp mà chính phủ Pháp đã quyết định gởi Montigny đến thực hiện sứ mệnh trong các vùng này. Nhưng chính yếu nhất là những vận động được sự hỗ trợ của các nhân vật quan trọng như Tổng Giám mục Bonnechose của vùng Rouen [65] và của chính Hoàng hậu: những vận động ấy đã thành công trong việc thuyết phục Napoléon III dù lúc ấy ông không có kế hoạch thuộc địa nào rõ rệt. Các vận động này đến từ hai giáo sĩ thừa sai: linh mục Huc, thành viên của Hội thánh Lazarre, cựu sứ bộ tòa thánh ở Trung Quốc, Tartarie và Tây Tạng, tác giả của sách Gia Tô giáo ở Trung Quốc, Tartarie và Tây Tạng cùng nhiều tác phẩm khác về Trung Quốc; và giám mục Pellerin, Khâm sai tòa thánh tại Bắc Nam kỳ. A. Các thỉnh cầu của linh mục Huc Trong văn thư gởi lên Hoàng đế, linh mục Huc trình bày các mối lợi mà việc chiếm Việt Nam có thể mang lại cho Pháp [66] . Lợi về chiến lược: “Đà Nẵng nằm trong tay người Pháp sẽ là một hải cảng không ai tấn công nổi và là cứ điểm quan trọng nhất để chế ngự Bắc Á.” Lợi về kinh tế và thương mại: “Lãnh thổ Cochinchine [67] mầu mỡ có thể sánh được với các vùng nhiệt đới giàu có nhất. Xứ này thích hợp cho việc trồng trọt mọi sản phẩm thuộc địa. Các sản phẩm chính và phương tiện trao đổi hiện có là đường, gạo, gỗ xây dựng, ngà voi, v.v…; sau hết là vàng và bạc mà các mỏ rất phong phú đã được khai thác từ lâu.” Lợi về tôn giáo, tất nhiên: “Dân chúng hiền hòa, cần mẫn, rất dễ dãi đối với việc truyền bá đức tin Gia Tô… Chỉ cần một ít thời gian là có thể cải hóa toàn bộ thành tín đồ Gia Tô và con dân trung thành với Pháp.” Tức là trên mọi phương diện, theo linh mục Huc, Cochinchine là đồn trạm thuận tiện nhất cho Pháp. Mặt khác, việc chiếm đóng xứ này là “việc dễ nhất trên đời, không tốn kém gì cả cho nước Pháp”, bởi vì dân chúng “rên xiết dưới chế độ bạo tàn kinh khủng nhất… sẽ đón tiếp chúng ta như những người giải phóng và ân nhân”. Tóm lại, vì rất quan trọng cho Pháp phải có một cơ sở giàu và mạnh ở Viễn Đông, nên dứt khoát phải chiếm Cochinchine. Và phải làm gấp chừng nào hay chừng ấy vì Anh cũng đã “dòm ngó Đà Nẵng”. Chính linh mục Huc đã dâng văn thư này lên Hoàng đế vào tháng 1 năm 1857. Napoléon III đưa sang cho Bộ trưởng Ngoại giao Walewski, và ông này yêu cầu Cintrat, Giám đốc Cục Chính trị, làm bản báo cáo về văn thư này. Sau báo cáo, Napoléon III quyết định giao phó vấn đề cho một Uỷ ban [68] được thành lập ngày 24 tháng 4 năm 1857. Sau cuộc hội kiến với Napoléon III, linh mục Huc tràn đầy hy vọng. Trong thư đề ngày 21 tháng 5 năm 1857 gởi Chưởng lý của các phái bộ truyền giáo ở Hồng Kông, ông viết: “Có lẽ Ngài sẽ thấy lại chuyện mới lạ tại Cochinchine. Tôi đã thảo luận lâu với Hoàng thượng về vấn đề này” [69] . B. Các thỉnh cầu của giám mục Pellerin Thất vọng vì sự thất bại của sứ bộ Montigny, giám mục Pellerin quyết định theo lời khuyên của đồng sự “đi Pháp để trình bày với Hoàng đế tình trạng thê thảm của các phái bộ thừa sai do các biện pháp nửa vời gây nên”. Đến Pháp vào đầu tháng 5, ngày 16 tháng 5 ông trình bày trước Uỷ ban và ngày 21 tháng 5 trao cho Uỷ ban một bản trần tình chi tiết, trước khi được Napoléon III tiếp kiến. Trong một bức thư gởi cho một thừa sai ở Tây Tạng, ông tường thuật vài chi tiết đáng lưu ý về cuộc hội kiến ấy: “Hoàng đế đã tiếp tôi rất niềm nở và còn ban cấp cho tôi nhiều hơn những gì tôi xin. Hoàng đế hết sức sẵn lòng giúp đỡ các phái bộ và ý Hoàng thượng muốn rằng các thừa sai Pháp phải được tự do ở khắp nơi; phải cầu nguyện Thiên Chúa giữ lại người của Chúa trên ngai. Các phái bộ của Ngài, các phái bộ ở Triều Tiên, ở Nhật Bản cũng sắp được tự do nay mai, phải hy vọng điều đó. Nước Pháp sẽ dựng cơ sở vững vàng tại các xứ đó, và rồi sẽ không còn sự ngược đãi nữa” [70] . Nhưng sự việc có vẻ kéo dài mãi. Giám mục sốt ruột và thấy nên nhắc nhở Napoléon III về vấn đề ấy. Ông viết trong thư đề ngày 30 tháng 8 năm 1857: “Xin Hoàng thượng cho phép hạ thần nhắc lại một lần nữa về những người mới cải đạo khốn khổ ở xứ Cochinchine và các thừa sai Pháp ở nước An Nam; hiện giờ máu họ đang đổ và tình cảnh họ còn kinh khủng hơn từ khi có cuộc vận động sau chót của nước Pháp. Nếu bây giờ chẳng ai làm gì cả cho chúng tôi, e rằng Gia Tô giáo sẽ bị tiên diệt tại các vùng đất có vẻ rất sẵn sàng đón nhận ân đức của tôn giáo này và của văn minh… Chúng tôi kính xin Hoàng thượng đừng bỏ rơi chúng tôi. Điều mà Hoàng thượng ban cho chúng tôi sẽ khiến cho ân phúc của Thiên Chúa ban xuống cho Hoàng thượng và triều đại huy hoàng của Hoàng thượng…” [71] Sau đó, giám mục Pellerin trở về Rô-ma và được Giáo hoàng Pie XI tán thành các vận động của ông. Xuyên qua những can thiệp của linh mục Huc và của giám mục Pellerin, ta ghi lại ý tưởng chính sau đây: cuộc viễn chinh mà hai vị ấy thỉnh cầu, nhân danh các thừa sai ở Việt Nam, không phải là một cuộc biểu dương lực lượng đơn thuần, cũng không phải là một cuộc chiếm đóng tạm thời một hay nhiều địa điểm trên lãnh thổ Việt Nam; rõ ràng đây là một cuộc viễn chinh thuộc địa, vì nó nhằm xây dựng một thuộc địa Pháp vĩnh viễn ở góc này của Viễn Đông. Ý tưởng này được một giáo sĩ thừa sai khác, linh mục Legrand de la Liraye, trình bày hùng hồn hơn trong bản luận cương ông gởi cho Napoléon III vào khoảng tháng 12 năm 1857. Cho đến nay các người viết sử không biết tài liệu này [72] , có lẽ vì vận động của linh mục Legrand quá trễ: thật vậy, Napoléon III đã ra lệnh can thiệp vào Việt Nam từ tháng 11 năm 1857. C. Luận cương của linh mục Legrand de la Liraye Điều độc đáo của linh mục Legrand là muốn xem vấn đề “trước hết có tính cách chính trị”. Thái độ này làm mếch lòng các thừa sai khác, nhưng nó cho phép ông trình bày vấn đề một cách rõ ràng, không quanh co, dưới mọi khía cạnh, chính trị, kinh tế, quân sự, nhất là quân sự, vì ông muốn đóng vai một nhà chiến lược. 1. Lợi ích chính trị và chiến lược Theo linh mục Legrand, chỉ cần nhìn vị thế địa lý của “xứ An Nam”, người ta hiểu ngay việc chiếm đóng xứ này là quan trọng đến đâu cho nước Pháp: “Trong hiện tình, khi Anh chiếm trọn Ấn Độ đến tận Singapour và chuẩn bị xiết chặt hơn nữa Trung Quốc, cần cắt đứt sự giao thông giữa các thuộc địa của họ, rồi cùng với Tây Ban Nha ở Phi Luật Tân, Hà Lan ở Java và Sumatra dựng lên một chướng ngại nào đó, một điểm trọng tài cho người thua trận nếu muốn nói thế, một điểm giám sát đối với kẻ thắng trận quá tham lam, một điểm nương thân và trú ẩn cho tàu bè của chúng ta hình như đang lang thang phiêu bạt trong khắp vùng Viễn Đông này, và cuối cùng là một điểm tiếp tế và thương mại cho những người trung gian buôn bán gia vị của chúng ta vốn chỉ được các lá cờ nước ngoài bảo đảm và che chở nơi vùng đất quá xa Tổ quốc này.” 2. Lợi ích kinh tế Vương quốc này rất xứng đáng với một cơ sở thuộc địa xét về mặt giàu có của đất đai, vốn hơn hẳn Phi Luật Tân, Java và Bornéo, cũng như về mặt dân chúng, vốn “dễ bảo, thông minh và siêng năng”. Tài nguyên của xứ ấy “sẽ khiến nước Pháp yêu thích vùng đất đẹp nhất và quí nhất này so với các thuộc địa cũ và mới của Pháp”. 3. Khả năng xâm chiếm Vùng đất mỹ miều và quí giá này sẵn sàng rơi vào tay Pháp, vì nhiều lý do. Trước hết, dân chúng luôn luôn trung thành với nhà Lê bị truất ngôi “bởi các biến cố lớn của cuối thế kỷ trước”; họ đau khổ dưới chính phủ hiện thời, “một chính phủ tàn bạo, bất công, lừa dối và đầy cưỡng đoạt khiến cho đất nước ngày càng thêm đau khổ và vì thế đang cựa mình và sẵn sàng nổi dậy”. Trước viễn tượng sự nổi dậy đó, quân binh “run sợ và chán nản trong hầu hết các tỉnh miền Bắc”; đằng khác, quân đội này vừa mới chứng tỏ sự bất lực qua việc cầu hòa với những người Trung Quốc nổi loạn và cướp phá ở vùng đó thay vì phải đánh tan. Sự nổi loạn cũng đang ấp ủ ở phía Nam, nơi có 2 dân tộc thiểu số đang sống nhục nhã: đó là người Chăm (trước kia gọi là người Chàm) [73] bị đưa trở lui về tình trạng bộ lạc ở tỉnh Bình Thuận, và người Cam Bốt “bị buộc phải nhượng cho kẻ chiến thắng tất cả các cửa sông và các vùng phù sa mênh mông của con sông lớn được tạm dùng làm biên giới”. Cùng với các yếu tố bất ổn đó, ông Vua không con nối dõi sau mười hay mười lăm năm kết hôn, “đang đắm chìm trong những khoái lạc sa đọa nhất, chỉ biết sống giữa hơn năm nghìn cung phi mà ông chỉ vui thú lúc tắm hoặc lúc đóng tuồng với họ”. Còn quan lại, “họ chia làm hai phe để giành giật chức vụ và thu nạp bộ hạ; họ tạo nên đầy rẫy những kẻ tham lam, ăn của đút và gian ác, tại các tỉnh bọn này lấy sự đau khổ của dân chúng làm trò vui và đàn áp họ”. Phải chăng nước Pháp sợ một cuộc viễn chinh tốn kém? Hãy yên tâm! “Hải quân An Nam có thể nói là không còn nữa từ sau vụ Đà Nẵng năm 1847: đã có lệnh không đóng thuyền theo kiểu Âu châu nữa, còn ghe trong nước thì thiếu vũ trang và thiết bị”. Vậy, không có gì phải sợ về mặt thủy chiến. Trên bộ ư? “Quân đội thiếu tổ chức và khí giới: quân đội đó có tính dân sự hơn là quân đội, họ không biết dùng đại bác và súng, chỉ có một số rất hiếm là có khả năng sử dụng”. Quân đội đó có khoảng 60.000 hay 70.000 người cho toàn xứ, không thể tập hợp tại một địa điểm quá số 10.000 hay 15.000 tinh binh, mà “theo ý tôi, kỹ thuật chiến đấu và lòng can đảm không thể chống nổi một trung đoàn Pháp”. Sau hết: “Thành lũy bị hư nát, chỉ còn các lũy tre bao bọc thành phố và làng mạc là còn đáng ngại đôi chút, nhưng với các chất liệu dễ cháy đó, không có gì khó khăn cho việc chiến thắng, vả lại tôi không tin rằng dân tộc đó có đủ can đảm để quyết tâm chiến đấu sau thành lũy này”. Kết luận: trái đã quá chín rồi, không thể không rụng; lạy Chúa đừng để nó rơi vào tay người Anh! Mọi người, dân chúng và chính quyền, “tôi nói, mọi người mong thấy nước Pháp cắm cờ Pháp trên các bờ biển này”. Mọi người sốt ruột, ngạc nhiên trước thái độ bất động của Pháp, trước sự chậm trễ, trước các vận động sai lầm cho đến nay, mọi người mong đợi “từng ngày được thấy tàu chiến của chúng ta đến dùng súng đại bác đòi hỏi” những quyền lợi mà hiệp ước 1787 đã dành cho Pháp, những quyền lợi mà người An Nam cho đến nay đã phủ nhận “một cách bất công và hèn hạ”. 4. Kế hoạch xâm lăng Đó là các nhận định đại cương. Còn về kế hoạch xâm lăng, linh mục Legrand de la Liraye đề nghị một cuộc tấn công ngoại giao được tiếp nối bằng một can thiệp vũ trang trong trường hợp thất bại. Về tấn công ngoại giao, trước hết, hãy dâng một tặng phẩm cho Vua: đó là lệ thường của xứ này; huống hồ “tặng vật luôn luôn có hệ quả tốt”; kế đến, trình tại Đà Nẵng hoặc tại cửa sông dẫn vào Kinh đô một bức thư nói về tự do thương mại, về những sỉ nhục mà “nước này đã gây cho Pháp”, những bất công đối với người Pháp khi tàn phá việc buôn bán của họ, khi xử tử các thừa sai Gia Tô giáo, khi kết tội những người Gia Tô là thủ phạm của những khuyến cáo “đúng đắn và ôn hòa” mà nước Pháp đã nhiều lần đưa ra để bênh vực họ, cuối cùng về sự bội ơn “mà nước này đã phạm trước mắt toàn thế giới khi đoạn tuyệt một cách vô liêm sỉ với một nước đồng minh” sau khi đã tiếp nhận “biết bao giúp đỡ về người và tiền bạc”. Để kết luận, ta đòi: – quyền đại diện bằng một đoàn sĩ quan tại nhiều điểm (Phú Quốc, Cam Ranh, Đà Nẵng, Cửa Cấm) để bảo đảm tự do lưu thông, tự do buôn bán tại các cảng lớn trong nước, tự do tôn giáo cho mọi tín đồ Gia Tô và quyền cư trú cho các thừa sai như dưới thời Gia Long; – chiếm giữ vĩnh viễn Đà Nẵng và các đảo phụ cận, Hội An ở phía Nam và Hải Vân, Cù Lao Chàm ở phía Bắc để làm điểm trú ẩn, tiếp liệu và kho hàng; – cuối cùng, một liên minh phòng thủ và tấn công. Trong hai điều sẽ có một, hoặc Vua chấp nhận yêu cầu của Pháp, hoặc Vua “tức giận và từ chối”. Trong trường hợp đầu, Pháp sẽ lập nền bảo hộ, sẽ đối xử đàng hoàng với Vua và giữ Vua ở lại ngôi cùng các đặc quyền “với các điều kiện hợp lý”. Nhưng linh mục Legrand không tin giả thuyết này. Vậy chỉ còn giả thuyết sau, thế là chiến tranh. “Theo tôi, chiến tranh là cách duy nhất để đạt kết quả nghiêm chỉnh đối với nước ấy. Phải chấp nhận chiến tranh như là cách tốt nhất, phải đánh gấp Bắc kỳ, Huế và Đà Nẵng cùng lúc, nếu được thì lật đổ chính phủ, bàn chuyện giải phóng hai dân tộc chiến bại ở Nam kỳ và đặt lên ngôi ở Bắc kỳ một kẻ tự xưng là con cháu nhà Lê”. [74] Để tỏ ra là một người có năng khiếu về quân sự không kém năng khiếu về tổ chức giáo hội, ông đưa ra cả một kế hoạch hành quân đầy đủ, nêu lên các phương tiện sử dụng, chỉ rõ các điểm nên chiếm, giải thích lý do, ước lượng số tàu và quân đội đưa vào cuộc chiến, v.v… Cuối cùng, ông ta tình nguyện tham gia cuộc viễn chinh với tư cách thông ngôn để tuyển mộ tại chỗ “những người bản xứ gia nhập vào đội binh của chúng ta và họ sẽ hết sức vui mừng khi được mang vũ khí cùng với phù hiệu nước Pháp”. Tóm lại, chính sách mà linh mục Huc, giám mục Pellerin và linh mục Legrand chủ xướng là một chính sách xâm chiếm thuộc địa. Chính sách xâm chiếm này được cả một chiến dịch báo chí của người Gia Tô hậu thuẫn trong những tháng cuối cùng của năm 1857. Vì mục đích đó, tờ Univers của Louis Veuillot đã phổ biến bài tựa của linh mục Huc trong tác phẩm của ông ta mang tên Le Christianisme en Chine, au Tibet et dans la Tartarie (Gia Tô giáo ở Trung Quốc, Tây Tạng và Tartarie): “Thật là đẹp đẽ và vinh dự cho triều đại Napoléon III nếu thiết lập được ảnh hưởng của Pháp tại Đông Dương trên những nền tảng vững chắc và nếu có thể đòi cả việc thực hiện những quyền đã ký kết trong hiệp ước Versailles với Vua Louis XVI” [75] . Tiếp theo là các bài báo khác, xuất bản trong các số tháng 12, lên án các biện pháp nửa vời và đòi hỏi xâm lăng: “Xứ Cochinchine sẽ thuộc về chúng ta ngay khi nào chúng ta muốn xuất hiện ở đó… Đất xâm chiếm giàu có này sẽ trả đủ ngay trong năm đầu mọi chi phí cho một cuộc chiếm đóng bằng quân sự” [76] . Chính Louis Veuillot viết một loạt ba bài xã luận vào tháng 4 tán dương công trình thừa sai truyền giáo và đòi hỏi một chính sách đế quốc cực đoan như của nước Anh và nước Nga: “Những thay đổi mà sự bành trướng ấy [của Nga và Anh] đã gây nên cho sự quân bình cũ của Âu châu, buộc chúng ta phải có Madagascar ở Ấn Độ dương, Nam kỳ trong biển Hoa Nam, và Triều Tiên nơi các biển Bắc Viễn Đông” [77] . Tập san Gia Tô, tờ Correspondant, đăng một bài ngày 25 tháng 12 của tác giả P. Douhaire cũng lên án những biện pháp nửa vời: “Hoặc chúng ta đừng làm gì cả… hoặc phải có quyết tâm, vì chúng ta có đủ sức mạnh và can đảm, để hoàn thành một chinh phục…”. Bài báo chứng minh lợi ích kinh tế và chính trị của việc chiếm đóng Nam kỳ, điều này đem lại cho kỹ nghệ Pháp tơ lụa, bông, đường. Tác giả không quên nói thêm, theo kiểu của các thừa sai: cuộc chinh phục sẽ dễ dàng và người Pháp sẽ được đón tiếp như người giải phóng [78] . Thái độ của Uỷ ban Nam kỳ ra sao trước các dẫn dụ đó của những thừa sai?
THÁI ĐỘ CỦA UỶ BAN NAM KỲ
Được chỉ định thành lập ngày 22 tháng 4, Uỷ ban Nam kỳ được đặt dưới sự chủ tọa của Bá tước Brenier, công sứ toàn quyền ở Naples. Đại diện của Bộ Ngoại giao là Pierre Cintrat; của Bộ Hải quân là Đô đốc Fourichon và Đại tá Hải quân Jaurès; và của Bộ Thương mại là Fleury. Chỉ có Cintrat là do dự; trái lại, các vị khác rất tán thành cuộc viễn chinh. Vấn đề thứ nhất đặt ra cho Uỷ ban là câu hỏi pháp lý: phải chăng nước Pháp có quyền, như các thừa sai chủ trương, đòi thi hành các điều khoản có lợi cho mình trong hiệp ước được ký năm 1787 giữa giám mục Bá Đa Lộc, đại diện toàn quyền của Nguyễn Ánh, với chính phủ của Vua Louis XVI? Câu trả lời là không: người Pháp chưa bao giờ thi hành hiệp ước này, nên, theo nhận định của Uỷ ban, không thể đòi phía Việt Nam thi hành việc chuyển nhượng Đà Nẵng và Côn Lôn. Tuy nhiên, căn cứ vào lý lẽ của linh mục Huc và của giám mục Pellerin, Uỷ ban ghi nhận “sự giúp đỡ không chối cãi được” của người Pháp cho “Vua xứ Nam kỳ” [79] . Ba vấn đề khác thuộc các lãnh vực kinh tế, chính trị, quân sự và thuộc địa. Can thiệp vào Nam kỳ có lợi gì về kinh tế và thương mại? Các lợi ích chính trị ra sao? Những phương tiện nào sẽ phải sử dụng cho cuộc viễn chinh này? Tính chất của thuộc địa Pháp ở Nam kỳ sẽ là thế nào? A. Vấn đề kinh tế và thương mại Việt Nam được các giáo sĩ thừa sai trình bày như là một xứ rất giàu. Giám mục Retord viết: “Nước Pháp sẽ tìm thấy ở xứ sở đẹp đẽ này nhiều mỏ vàng, bạc, đồng, sắt và than đá, nhiều gỗ tốt để đóng tàu; Pháp sẽ có một hải cảng an toàn cho các hạm đội và thực phẩm cho lính thủy của mình… Tại đó người ta còn có thể thiết lập một nền thương mại quan trọng về gạo, bông, muối, cau, lụa, tơ cùng nhiều mặt hàng khác…” [80] . Trước Uỷ ban, giám mục Pellerin cũng nhấn mạnh trên khả năng trồng cà phê và khai thác mỏ vàng, mỏ than, mỏ đồng và mỏ sắt [81] . Các lời tuyên bố như vậy hấp dẫn đại diện của Bộ Thương mại. Fleury trình bày cho các đồng sự về việc kỹ nghệ Pháp đang cần các thị trường mới. Ông cho biết, hằng năm người Pháp tiêu thụ 25 triệu đơn vị [82] (*) đường ngoại nhập, 20 triệu đơn vị gạo, 17 triệu đơn vị cây thuốc nhuộm, 62 triệu đơn vị tơ sống, 65 triệu đơn vị gỗ để chế tạo và 121 triệu đơn vị bông. Nam kỳ có giúp được chăng cho thị trường Pháp, hoặc ở mặt xuất cảng, hoặc ở mặt nhập cảng? [83] Fourichon và Jaurès trả lời rằng họ hoàn toàn tin tưởng nơi viễn cảnh ấy: “Nam kỳ đáp ứng đầy đủ các điều đó, nếu không ở mặt tiêu thụ thì ít ra cũng ở mặt sản xuất” [84] . B. Lợi thế chính trị Lợi ích kinh tế có vẻ hiển nhiên. Nhưng, theo Fleury, các lý lẽ chính trị mới là quyết định, còn các quan tâm thương mại chỉ đứng hàng thứ yếu [85] . Đây cũng là quan điểm của linh mục Huc, vì trong văn thư ông đặc biệt nhấn mạnh trên lý do chính trị của cuộc viễn chinh: theo ông, miền Viễn Đông sắp bị xáo trộn. Dùng lại các ý tưởng của một thừa sai, Đô đốc Fourichon nêu câu hỏi: “Trong lúc người Nga bành trướng xuống phía Nam sông Amour (Ái Tử) và trên quần đảo phía Bắc nước Nhật Bản, trong lúc Anh chắc chắn sẽ chiếm Chusan và có thể luôn cả Đài Loan cùng các điểm tuyệt vời dọc duyên hải Trung Quốc, trong lúc người Hà lan mở rộng sự thống trị của họ đến Mã Lai, trong lúc người Mỹ tìm ở đó những căn cứ trú ẩn và tiếp liệu, trong lúc Tây Ban Nha đang mở mang nhóm quần đảo Phi Luật Tân xinh đẹp, lẽ nào Pháp chỉ có thể đóng vai trò bàng quan, không nghĩ cách làm sống lại những ngày huy hoàng của sự bành trướng hàng hải và thuộc địa của mình?” Dĩ nhiên là Fourichon không nghĩ rằng Pháp sẽ hành xử như vậy, và ông hy vọng công việc của Uỷ ban sẽ giúp chính phủ sáng tỏ vấn đề này [86] . C. Thái độ tiếp đón của dân chúng Việt Nam đối với can thiệp của Pháp Để lôi kéo nước Pháp vào cuộc xâm lăng Việt Nam, chiến thuật của các giáo sĩ thừa sai là trình bày như thể đây là một việc làm hết sức dễ dàng. Chúng ta đã nghe những lời khẳng định dứt khoát của linh mục Huc, của giám mục Pellerin và của linh mục Legrand về điểm này. Nhưng cuộc xâm lăng càng trở nên dễ dàng hơn khi dân chúng, bị đè nén dưới sự áp bức của triều đình và quan lại Huế, sẽ đón tiếp người Pháp như những người giải phóng. Đó là các lời tuyên bố của linh mục Huc và của giám mục Pellerin trước Uỷ ban. Các thừa sai khác, như linh mục Libois, đại diện của các Sứ bộ Truyền giáo Hải ngoại ở Hồng Kông, và giám mục Retord, Khâm sai Tòa thánh tại Tây Bắc bộ, cũng lặp đi lặp lại mãi điều đó với Đại diện của Pháp tại Trung Quốc [87] . Các giáo sĩ thừa sai ấy xác nhận rằng chắc chắn người Pháp sẽ nhận được sự giúp đỡ và hợp tác của người Gia Tô. Linh mục Huc, dù chưa hề sống tại Việt Nam, tuyên bố rằng 600.000 con chiên bản xứ, tuyệt đối trung thành với những thừa sai, vẫn còn giữ truyền thống hữu nghị đối với Pháp. Giám mục Pellerin còn đi xa hơn nữa và quả quyết rằng 600.000 con chiên này sẽ giúp đỡ người Pháp, và những thầy giảng do các thừa sai đào tạo “biết phong tục, tập quán và hầu như rành ngôn ngữ của chúng ta” có khả năng “trở thành nơi đào tạo để chúng ta tuyển những quan lại mới”. Các tuyên bố này gây ảnh hưởng to lớn trên Uỷ ban, và Uỷ ban dùng những tin tức do các thừa sai cung cấp như là của mình. Đô đốc Fourichon và Đại tá Jaurès khẳng định rằng sự đón tiếp của dân chúng sẽ tuyệt vời, rằng người Pháp phải “dự tính trước một cuộc đón tiếp đầy thiện cảm”, rằng họ sẽ “được dân chúng, bị đè nén dưới sách nhiễu và gông cùm của quan lại, tiếp nhận như những người giải phóng”, rằng phải tin vào sự giúp đỡ của 600.000 người Gia Tô bản xứ, là “những người mà chúng ta phải nương tựa ngay từ đầu” và có thể “một số nào đó sẽ gia nhập quân đội chúng ta” [88] . Cũng bị ảnh hưởng như vậy, Cintrat tin rằng “sự đón tiếp chỉ có thể là thuận lợi cho người Pháp” từ phía dân chúng mong muốn một cuộc thay đổi chế độ vì “sự tàn bạo ghê tởm đang nghiền nát họ” [89] . Chỉ có Bá tước Brenier là tỏ ra dè dặt. Ông nói: “Có thể chúng ta sẽ được sự ủng hộ của những người dân bị đàn áp bởi một chính phủ tàn bạo, tham lam và bóc lột, họ sẽ xem chúng ta như là những người giải phóng, nhưng chúng ta không nên chờ đợi nơi họ một sự hợp tác thiết thực, có thể ngoại trừ từ phía những giáo dân, và cả điều này cũng có vẻ đáng ngờ” [90] . Sự dè dặt này sẽ được thực tế chứng minh là có lý. D. Tính chất của thuộc địa sẽ thiết lập Có 3 giải pháp được đề nghị: chiếm đóng một số điểm ở bờ biển, chiếm hữu toàn bộ cùng với việc loại bỏ dòng họ đang trị vì, và đặt một nền bảo hộ. Các thừa sai, đặc biệt những người ở Bắc bộ, rõ ràng muốn một giải pháp bảo hộ. Sau khi nói đến nền bảo hộ trong trường hợp Vua Việt Nam chấp thuận các điều kiện do Pháp áp đặt, linh mục Legrand nghĩ rằng ngay cả trong trường hợp chiến tranh xảy ra, cũng nên giữ lại chính phủ quân chủ từng cai trị thỏa đáng một nước lớn như thế với một dân số đông đảo như thế: “Chính phủ đó hoàn toàn đủ cho nhu cầu của dân chúng, trong khi chúng ta, dù trong hai mươi năm, có thể trong năm mươi năm, chúng ta không thể lập lại được một chính phủ vừa làm cho dân chịu đựng nổi vừa có ích cho mục tiêu của chúng ta” [91] . Quan điểm của giám mục Retord càng rõ rệt hơn. Ông tuyên bố: “Nước Pháp phải làm cái gì to lớn, quan trọng, vững bền và xứng đáng với nước đó và với Hoàng đế của nước đó. Nếu nước Pháp chinh phục xứ này (và việc này không khó) và cai trị trực tiếp, người dân Bắc kỳ sẽ khá hài lòng, nhưng họ thích sống dưới sự bảo hộ và ảnh hưởng của Pháp với một ông vua riêng của nước họ hơn” [92] . Linh mục Huc có vẻ muốn đi xa hơn: chế độ bảo hộ, theo ông, chỉ là giai đoạn đầu; mục đích cuối cùng là chiếm hữu toàn bộ xứ này. Ông giải thích trước Uỷ ban Nam kỳ: “Có một gia đình xưng là nhánh vua chính thống mà có lẽ chúng ta có thể sử dụng để lật đổ triều đại hiện giờ…; nên, ngay từ nguyên tắc, phải thiết lập chế độ bảo hộ, cùng với việc giữ nhà Vua lại ở trên ngôi, nghiên cứu việc tổ chức xứ sở ấy (xứ này tổ chức gần giống chúng ta) và cuối cùng tuyên bố làm chủ xứ đó” [93] . Dù sao ông cũng chấp nhận chế độ bảo hộ như là phương cách thích hợp nhất cho giai đoạn đầu của cuộc xâm lăng. Về phần giám mục Pellerin, lúc đầu ông tuyên bố chỉ cần đến Huế buộc nhà vua ký một hiệp ước và công bố một sắc dụ. Nhưng khi Cintrat và Fleury tỏ ý nghi ngờ về hiệu quả của hành động đó để bảo vệ quyền lợi tôn giáo, thương mại và chính trị, giám mục lựa chọn dứt khoát giải pháp bảo hộ. Ông nói: “Sự ký một hiệp ước với Vua, sự có mặt của một lãnh sự, việc mở các cảng, việc phô trương lực lượng hải quân có thể bảo đảm mọi quyền lợi của chúng ta, nhưng một sự chiếm đóng hay một nền bảo hộ thì thích đáng hơn nhiều”. Để xác định rõ ý kiến của mình, ông khuyên “ngay khi vừa đến, nên bắt giữ Vua và để lại cho Vua một quyền hữu danh vô thực” thay vì tuyên bố truất phế Vua và chiếm đóng xứ sở, là các biện pháp mà theo ông “có thể đụng chạm đến tình cảm quốc gia và gây nên rắc rối về đối nội cũng như đối ngoại”. Ông cũng tiên liệu trường hợp bi thảm là nhà Vua sẽ tự treo cổ “cùng với tể tướng của Vua”: nếu thế, càng tốt, chúng ta sẽ cai trị “với người kế vị, người này chắc chắn không có cùng những lý do tự ái để tự sát”. Kết luận lạc quan sau đây lôi cuốn lòng tin của mọi người trong Uỷ ban: “Việc giữ nguyên ngôi vị Vua cùng với những lợi ích mà dân chúng sẽ được hưởng từ sự công bình, thanh liêm của chính thể do Pháp lãnh đạo, sẽ làm cho tên tuổi nước Pháp được tôn vinh và làm cho toàn xứ vui mừng tiếp nhận nền bảo hộ của Pháp” [94] . Tại sao các giáo sĩ thừa sai lại thích chế độ bảo hộ? Lý do thật giản dị. Mộng ước của mọi thừa sai là nắm được một ông vua hết lòng với họ, một Constantin phương Đông. Bởi vậy các thừa sai ở Bắc bộ đã tạo nên một người mà họ muốn có ngày đặt lên ngôi ở Bắc: đó là một con chiên tự nhận là con cháu nhà Lê [95] . Chính vì vậy, linh mục Legrand và giám mục Retord – cả hai vị đều là thừa sai tại Bắc bộ – đều triệt để ủng hộ chế độ bảo hộ cùng với sự thay đổi triều đại. Về sự thay đổi triều đại, quan điểm của giám mục Pellerin không rõ ràng. Vì không có liên hệ với “con cháu nhà Lê”, giáo khu của ông ta ở Nam bộ, giám mục tỏ vẻ khá dửng dưng đối với việc thay đổi triều đại. Trong bản điều trần, ông khuyên thay đổi triều đại hiện hành, “bị dân chúng căm ghét”, bằng một triều đại khác và chắc chắn triều đại này sẽ biết ơn nước Pháp. Trong lời báo cáo miệng trước Uỷ ban, ông xác nhận việc trở lại của nhà Lê có thể xảy ra, nhưng điều này có thể kéo theo vài khó khăn, vì theo ông, hoàng tộc họ Nguyễn đang trị vì, do chế độ đa thê, gồm con cháu khoảng 3.000 người có lợi để bảo tồn ngôi Vua. Vì thế, ông có vẻ không chống đối việc giữ lại triều đại đương quyền, dĩ nhiên với điều kiện tạo nên được một người thay Vua Tự Đức, chấp nhận nền bảo hộ của Pháp và quyền lãnh đạo tinh thần của những thừa sai. Uỷ ban chấp nhận hoàn toàn quan điểm của các thừa sai bằng cách nhất trí tuyên bố ủng hộ việc thiết lập một chế độ bảo hộ như là một giải pháp vừa chứa đựng các điều kiện thuận lợi cho quyền lợi Pháp vừa không khó thực hiện [96] . Để bắt đầu, họ đề nghị, vẫn theo ý kiến của các thừa sai, chiếm giữ ba thủ đô: Huế, Kẻ Chợ (tức Hà Nội ngày nay), Sài Gòn, và cảng Đà Nẵng [97] . Các thảo luận của Uỷ ban đưa đến ba ý kiến chính sau đây: 1. Quan tâm thuộc địa đã rõ ràng. Đại diện Bộ Thương mại, Fleury, không ngừng nhấn mạnh trên “sự lợi ích, sự cần thiết tuyệt đối của nền kỹ nghệ chúng ta phải có các thị trường và nơi tiếp liệu mới”. Ông báo cho Uỷ ban biết rằng nhiều chủ tàu ở các cảng Pháp, nhất là ở Nantes, đã bày tỏ ý định phái các tàu mang hàng đến Đông Dương với mong muốn được sự bảo đảm an ninh và che chở của chính phủ Pháp trong các vùng biển quanh đó [98] . 2. Nhưng các lợi thế vật chất không phải là động cơ duy nhất thúc đẩy Uỷ ban chấp nhận kế hoạch chiếm đóng thuộc địa tại Việt Nam. Nhiều ý tưởng khác cũng góp phần vào đó. Trước hết là ý niệm về uy tín, do Cintrat chủ trương. Các sử gia ngày nay có khuynh hướng nhấn mạnh điểm này nhất. Brunchswig, chẳng hạn, cho rằng đó là nỗi bận tâm chính trong chính sách thuộc địa của các vua Pháp [99] . Thật vậy, tuy hoài nghi về lợi ích vật chất mà một thuộc địa ở Nam kỳ có thể mang lại, Cintrat vẫn thừa nhận sự cần thiết phải bảo tồn uy tín quốc tế mà Đế chế Pháp vừa đạt được ở Crimée, và phải thỏa mãn niềm tự hào dân tộc bị xúc phạm bởi sự thất bại mới đây của phái bộ Montigny. Kế đến, và điều này còn quan trọng hơn nhiều, là khái niệm về tính thượng đẳng của Gia Tô giáo, của văn minh Tây phương và của chủng tộc Âu châu. Tư tưởng này được chính Chủ tịch Brenier trình bày trước Ủy ban: “Việc đàn áp các thừa sai của chúng ta, những lợi ích thương mại của chúng ta và tính thượng đẳng mà các nguyên tắc văn minh đã mang đến cho chúng ta so với các chủng tộc và các chính phủ dã man, đã tạo ra cho chúng ta quyền đòi hỏi những gì mà họ đã từ chối đối với các đề nghị hòa bình của chúng ta. Cái mà người ta gọi với một hãnh diện đúng đắn là sự chinh phục của văn minh [Tây phương], chỉ là kết quả tổng hợp của thuyết phục và sức mạnh; thuyết phục trước và sức mạnh kế theo khi giải pháp đầu tỏ ra bất lực và giải pháp sau là chính đáng” [100] . Như vậy, trong mắt của Bá tước Brenier, các cuộc xâm lược của người Âu châu là sự chiến thắng của văn minh chống lại man di: “Đừng quên rằng Âu châu, nghĩa là văn minh, đang trên đường chống lại Á châu đại diện cho man di, nó tiến đánh trên mọi mặt các quốc gia già nua đang trầm mình trong chế độ chuyên chế nhục mạ nhất; ở Thổ Nhĩ Kỳ, ở Ai Cập, Ba Tư, Ấn Độ và sắp đến là Trung Quốc, nền văn minh đang thiết lập dần dần bằng chính trị và đôi khi bất chấp chính trị. Nước Pháp không thể ngồi yên, bất động…” [101] . Do đó, ông kết luận, thực hiện một hành động trực tiếp trên chính phủ Nam kỳ và tạo dựng ở đó một thể chế thích hợp, để bảo đảm các quyền lợi ấy, là một nghĩa vụ quốc gia đối với tôn giáo, văn minh và đối với nền thương mại của Pháp [102] . Christianisme (Ki Tô giáo), Civilisation (văn minh) và Commerce (thương mại) là chủ thuyết ‘ba C’ nổi danh mà Livingstone hằng rao giảng. 3. Vì thiếu tư liệu chính xác về Việt Nam, Uỷ ban chỉ tin theo những bằng chứng của các giáo sĩ thừa sai. Sự đối chiếu với thực tế sẽ cho người Pháp thấy giá trị của những bằng chứng đó. Thế nhưng, như chúng ta sẽ thấy, chính sách thuộc địa Pháp tại Việt Nam lại dựa trên những ý tưởng phần lớn là sai lầm ấy. Uỷ ban chia tay ngày 10 tháng 5 năm 1857 và các thỉnh nguyện được trình lên cho Hoàng đế. Hai tháng sau, ngày 16 tháng 7, vấn đề Việt Nam được đưa ra lần đầu tiên trước Hội đồng Bộ trưởng. Thái độ của các bộ trưởng của Napoléon III ra sao?
THÁI ĐỘ CỦA CHÍNH PHỦ PHÁP
Trước khi Uỷ ban Nam kỳ nhóm họp, đề nghị của linh mục Huc được Bộ Ngoại giao nghiên cứu kỹ lưỡng. Một bản luận cương về vấn đề này được soạn thảo, và tác giả tỏ ra đặc biệt không tán thành các cuộc viễn chinh xa xôi và việc lập thuộc địa mới [103] . A. Bản luận cương của Bộ Ngoại giao Trước tiên, bản luận cương bác bỏ mọi quả quyết của linh mục Huc về quyền của Pháp đòi thi hành hiệp ước 1787. Về vấn đề này, bản trần tình phân biệt rõ giữa hành động cá nhân của giám mục Bá Đa Lộc và sự giúp đỡ chính thức mà Pháp chưa hề thực hiện. Vì không viện dẫn quyền ra được, nên sẽ phải dùng đến sức mạnh và “muốn chiếm các phần đất của xứ Nam kỳ bằng vũ lực, thì đó là chiến tranh chống Nam kỳ, một cuộc chiến phi nghĩa và có lẽ sẽ kéo dài sau khi chiếm được Đà Nẵng và có thể kéo chúng ta vào một chuỗi hành động khó khăn cùng với những chi phí rất tốn kém ở một vùng đất quá xa xôi như thế”. Mặt khác, bản luận cương cũng không tán thành việc chiếm Đà Nẵng, vì cảng này không có lợi ích gì cả trên bình diện chiến lược cũng như thuộc địa. Trên bình diện chiến lược, khi muốn kiến tạo các cơ sở xa xôi như thế, thì việc kiến tạo phải gắn liền với một tư tưởng tổng thể, với một hệ thống các cứ điểm hàng hải và thuộc địa để có thể vừa làm chỗ dựa vừa làm liên kết. “Vậy mà, một khi chiếc Ile de France không còn nữa, Đà Nẵng trong tay người Pháp chỉ là một đồn cô lập, khó bảo vệ và có thể còn khó duy trì hơn nữa, vì không thể nhận được chỗ dựa cùng sự bảo vệ của Bourbon, hay của Pondichéry, nhất là khi có chiến tranh trên biển. Bởi vậy, việc chiếm đóng Đà Nẵng chỉ là nguồn gốc của những bối rối và nguy hiểm vì nó sẽ phân chia và làm suy yếu lực lượng Hải quân Pháp, do chỗ phải xây dựng tại đó các căn cứ để giữ an ninh cho những cơ sở của chúng ta”. Trên bình diện thuộc địa, việc chiếm đóng Đà Nẵng có nguy cơ đem đến cho Pháp những thất vọng tai hại và đáng tiếc. Về điểm này, tác giả bản luận cương trưng ra một công văn đề ngày 20 tháng 7 năm 1788 của Conway, Toàn quyền tại Pondichéry, gởi cho Thống chế De Castres, Bộ trưởng Hải quân, trong đó Conway mô tả Đà Nẵng như là một xứ nghèo nàn khốn khổ, không sản xuất được gì cả, có lẽ ngoại trừ gạo, “một ốc đảo vắng vẻ bên cạnh một lục địa hoang vu”. Về mặt ngoại thương của Nam kỳ, Conway phát biểu rằng “hầu như nó hoàn toàn nằm trong tay người Trung Hoa”, một nhóm dân siêng năng, tằn tiện, khéo léo, người Pháp khó mà cạnh tranh nổi. Vì thương mại của Pháp ở Nam kỳ gần như không có gì cả, và nhất là thiếu những yếu tố thích đáng để sinh sôi nẩy nở, tương lai thuộc địa ở đó chỉ có thể là “rất đáng ngờ”. Tác giả bản luận cương đề nghị những gì? Điều cốt yếu là đừng tạo ảo tưởng về thương mại Pháp ở Viễn Đông: “Ở Viễn Đông, chúng ta chỉ có những quyền lợi rất bé nhỏ so với những quyền lợi của nước Anh, người làm chủ Ấn Độ và nhiều thuộc địa quan trọng khác, của Hà Lan, người làm chủ Java, và của Hoa Kỳ mà thương mại với Trung Quốc đã và đang ngày càng bành trướng mạnh. Tại đó chúng ta chỉ có thể có một vị thế tương xứng với sự thấp yếu đó: mọi ảo tưởng về vấn đề này có thể đem lại những nguy hại”. Nếu Pháp không có những quyền lợi thương mại đáng kể ở Viễn Đông, vậy Pháp có thể đóng vai trò gì trong các vùng biển Hoa Nam? “Hiện giờ, sứ mệnh của chúng ta thu gọn trong vai trò quan sát kỹ lưỡng những biến cố sắp xảy ra, bảo vệ tích cực cho tôn giáo và nhân loại, tạo ảnh hưởng văn minh – vì đó vốn là nhiệm vụ của nước Pháp – giám sát việc thi hành các hiệp ước đã hiện hữu và, trong mức độ có thể, khuyến khích những thử nghiệm yếu đuối và rụt rè của ngành thương mại của chúng ta cùng với tất cả những gì có thể cải thiện tình trạng đó tại các vùng xa xôi”. Phái bộ Pháp tại Trung Quốc, các tòa lãnh sự và các căn cứ hải quân Pháp đủ để làm các công việc này rồi. Tóm lại, tác giả bản luận cương chỉ làm theo chính sách mà nền ngoại giao Pháp đương thời đã ấn định, chính sách này xem các vấn đề thuộc địa ở Viễn Đông chỉ là thứ yếu, thậm chí vô nghĩa, đối với các vấn đề chính trị ở châu Âu. Vấn đề kinh tế không làm bận tâm đến những người trách nhiệm của nền ngoại giao Pháp; chỉ có châu Âu mới đáng cho họ chú ý. Vì thế, tác giả bản trần tình bác bỏ các gợi ý của linh mục Huc, cho rằng các gợi ý này “không thể chấp nhận được trên mặt pháp lý và hiệp ước, cũng như ở mặt lợi ích và còn khó chấp nhận hơn nữa về mặt cần thiết”. Theo tác giả, người Pháp đã có khá nhiều vấn đề và công việc ở châu Âu, ở cận Đông, ở châu Mỹ, ở Algérie để còn nghĩ đến việc lao mình vào những phiêu lưu khác, vào việc tạo ra “từ tay mình, giữa các vùng biển Ấn Độ và Trung Quốc, các nguồn lo âu và rắc rối mới cho Pháp”. Chúng ta không biết quan điểm riêng của Bộ trưởng Ngoại giao về bản luận cương. Nhưng chúng ta không thể không lưu ý đến chỗ bổ ích của tài liệu ấy, vì nó phản ánh trung thực chính sách chung của Bộ Ngoại giao thời đó; chính sách này không ưa những cuộc viễn chinh chiếm thuộc địa xa xôi. B. Thái độ của các bộ trưởng của Napoléon III Về điểm này, có một bức thư rất đáng chú ý, của Quận công Walewski đệ lên Napoléon III, đề ngày 16 tháng 7 năm 1857, trong đó Bộ trưởng Ngoại giao tường trình cho Hoàng đế kết quả cuộc thảo luận của Nội các trên vấn đề Việt Nam[104] . Ngay trong câu đầu, Walewski cho biết rằng “vấn đề Nam kỳ đã không được sự tán thành” nơi các đồng sự của ông. Bộ trưởng Tài chánh xác nhận ông ta không biết gì về Nam kỳ, không biết Nam kỳ ở đâu, và tuyên bố ngay là ông không tán thành khoản chi 6 triệu. Một bộ trưởng khác khuyên đừng lưu ý những mẩu chuyện được kể bởi những thủy thủ và những giáo sĩ thừa sai: những gì họ tường thuật, ông nói, “không hiểu theo nghĩa thông thường được”. Một bộ trưởng khác còn đánh giá “dự án ấy như một kế hoạch xuất ra từ bộ óc của những thừa sai và che đậy mưu đồ tối tăm của ‘chủ nghĩa Dòng Tên’ (jésuitisme)”, trong khi đồng sự của ông bên Bộ Tôn giáo thì “vội vã minh oan là không dính líu đến mọi sáng kiến và cả mọi đồng lõa trong một vấn đề có thể đụng chạm đến quyền lợi của Giáo hội”. Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa, Đô đốc Hamelin, còn tỏ ra hoài nghi hơn, không tin rằng công việc có thể đem lại lợi ích trên bình diện kinh tế. Nam kỳ sẽ tạo thành một nơi tiêu thụ cho sản phẩm kỹ nghệ của chúng ta chăng? Vâng, “cho vàng của chúng ta”, ông trả lời một cách giễu cợt. Cuối cùng, Walewski lưu ý Hội đồng Bộ trưởng về ý tưởng mà Napoléon III đã “cân nhắc kỹ”: đây không phải là “sự chuẩn bị lớn lao nhằm hoàn thành một kế hoạch chinh phục đã được quyết định dứt khoát, nhưng là một cuộc viễn chinh tương đối nhỏ mà người chỉ huy nhận những chỉ thị co giãn cho phép hành động tùy theo hoàn cảnh và, nếu các tin tức không đúng sự thật, thì chỉ giới hạn trong việc đánh chiếm Đà Nẵng để đòi thực hiện những yêu sách của chúng ta và các bảo đảm cho tương lai”. Thư của Walewski cho chúng ta biết nhiều điều. Trước hết, việc can thiệp vào Việt Nam đã được quyết định rồi, vào lúc đó. Thứ hai, chính Napoléon III đã quyết định; ông đưa vấn đề ra trước các bộ trưởng, không phải để hỏi ý kiến của họ, mà chỉ để báo cho họ biết quyết định và ý nghĩ của ông. Thứ ba, ông có vẻ không có một ý định thuần túy thuộc địa. Bởi vì các thừa sai cầu viện ông, bởi vì chiến hạm của Rigault de Genouilly lúc đó đóng ở vùng biển Trung Quốc, không xa Việt Nam, bởi vì phải làm một hành động gì đó, thế thì phải biểu dương lực lượng hải quân trước Đà Nẵng; hạ hồi thế nào sẽ tính sau. Trước mắt các bộ trưởng,“vấn đề Nam kỳ” là việc cá nhân của Hoàng đế, là liên quan đến quyền lợi của Gia Tô giáo hơn là quyền lợi thuộc địa. Vấn đề này lệ thuộc ý muốn riêng của Hoàng đế; trước ý muốn đó, họ phải nghiêng mình. Cuộc viễn chinh đã được quyết định, chỉ còn vấn đề thực hiện. Ngày 25 tháng 11 năm 1857, phó Đô đốc Rigault de Genouilly, chỉ huy trưởng các căn cứ hải quân Pháp trên các vùng biển Hoa Nam, nhận được các chỉ thị đầu tiên của Bộ trưởng.
CÁC CHỈ THỊ CỦA ĐÔ ĐỐC RIGAULT DE GENOUILLY
Chỉ huy trưởng cuộc viễn chinh có hai mục tiêu: đòi chính phủ Việt Nam thực hiện những yêu sách về vấn đề con chiên, và lập các quan hệ giữa Pháp và Việt Nam. Nếu các chỉ thị cho mục tiêu đầu minh bạch và rõ ràng, thì các chỉ thị cho mục tiêu sau lại co giãn. Trung thành với ý muốn của Napoléon III, Đô đốc Hamelin chỉ đưa ra hai giải pháp mà Rigault de Genouilly sẽ lựa chọn tùy tình thế. A. Yêu sách về vấn đề con chiên “Đô đốc, Ý của Hoàng thượng là muốn chấm dứt sự đàn áp cứ tái diễn không dứt đối với con chiên ở nước Nam kỳ, và bảo đảm cho họ bằng sự che chở hữu hiệu của Pháp” [105] . Công văn của Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa gởi Đô đốc Rigault de Genouilly mở đầu như thế. Rigault được lệnh “chiếm ngay Đà Nẵng và đóng giữ vững chắc ở đó”. Công văn chỉ nói đến lý do tôn giáo của cuộc viễn chinh, các lý do khác được trình bày trong một mật thư được gởi cùng ngày bởi Bộ trưởng Ngoại giao cho đồng sự của ông ở Bộ Hải quân, với một bản sao gởi cho Rigault cùng với các biên bản của Uỷ ban Nam kỳ. Theo mật thư này [106] , Rigault phải khiển trách chính phủ Việt Nam đã không tôn trọng các cam kết ký trong hiệp ước năm 1787 qua việc đàn áp những giáo sĩ thừa sai và khước từ việc thiết lập với Pháp “các quan hệ hữu nghị và thương mại”. Trong tình cảnh đó, Nước Pháp buộc phải can thiệp để “bảo đảm quyền lợi của mình và quyền của văn minh”. B. Tính co giãn của các chỉ thị về chế độ thuộc địa sẽ thiết lập tại Việt Nam Chiếm Đà Nẵng xong, Rigault nghiên cứu kỹ mọi nguồn tin cần thiết và cân nhắc giữa những kết quả quan trọng có thể đạt được và những hy sinh có thể gặp phải, những vận may có thể nắm được, để lựa chọn một trong hai giải pháp: hoặc là thiết lập chế độ bảo hộ, hoặc chỉ ký kết một hiệp ước hữu nghị và thương mại với các điều khoản đặc biệt bảo đảm an ninh tương lai cho những thừa sai. Trong cả hai trường hợp, “Hoàng thượng muốn để toàn quyền” cho Đô đốc hoặc lựa chọn hình thức bảo hộ nào đó mà ông thấy thích hợp nhất, hoặc ấn định các điều khoản cho hiệp ước sẽ ký kết với chính phủ Việt Nam, miễn là “không hy sinh các điều khoản bắt buộc phải có về phát triển thương mại và an ninh của những thừa sai của chúng ta”. Dù thế nào, vẫn phải giữ Đà Nẵng để làm bảo đảm. Có hai nhận xét về các chỉ thị này. Trước hết, chúng xác nhận điều mà Walewski đã giải thích trước Hội đồng Bộ trưởng: các mục đích của cuộc viễn chinh không được ấn định một cách chính xác, mà tùy theo tình thế và sự xét đoán của viên chỉ huy. Thứ hai, Napoléon III đã để bị lôi cuốn vào một cuộc viễn chinh mà ông không thấy rõ đoạn kết. Thật vậy, làm sao không thấy trước rằng chỉ mỗi việc chiếm đóng Đà Nẵng đã có thể kéo nước Pháp vào những hành động có tầm vóc to lớn hơn nhiều? Làm sao có thể tưởng tượng được rằng với một đoàn quân viễn chinh 1.200 người [107] , người ta có thể áp đặt chế độ bảo hộ trên một dân tộc 20 triệu? Đành rằng, với một quân số như thế, Rigault có thể chiếm Đà Nẵng, nhưng việc lập chế độ bảo hộ khiến nước Pháp phải dấn thân nhiều hơn là Napoléon III nghĩ. Tất cả những điều đó cho thấy đến mức nào Chính phủ Pháp đã chịu ảnh hưởng của những khẳng định đến từ phía các thừa sai. Về điểm này, cần lưu ý rằng chính Rigault de Genouilly đã cảnh giác Bộ Ngoại giao về mối nguy hiểm của việc cả tin nơi sự tuyên truyền của các giáo sĩ ấy. Trong một thư đề ngày 24 tháng 6 năm 1857 gởi cho De Lesseps, Giám đốc Cục Chính trị, ông viết: “Ở đây, tôi có nhiều tin cho biết rằng các thừa sai tại Nam kỳ sẽ vận động tại Paris nhằm tiến hành một cuộc viễn chinh chống Vương quốc An Nam. Thói quen của những thừa sai là trình bày việc gì cũng dễ dàng, và chính bằng cách ấy họ đã đẩy ông Lapierre vào một viễn chinh mà kết quả chẳng có gì khác hơn là lố bịch. Vậy, nếu muốn làm gì về phía này, cần phải quyết định đi đến cùng, và chính phủ nên biết rằng mình không đủ lực lượng để hàng phục chính phủ Nam kỳ, không phải thiếu hải quân mà thiếu bộ binh”. Theo Rigault, ít nhất phải có “1.000 lính thủy đánh bộ, 2 đại đội pháo binh và 1 đại đội công binh để chiếm Đà Nẵng, các đồn lũy của nó và giữ tất cả cho đến khi chính phủ ở Huế đầu hàng. Hoặc phải làm như vậy, hoặc là chúng ta lao mình vào những hành động có thể không lấy gì làm vinh dự và không kết quả”. Để kết luận, Đô đốc không quên nói thêm rằng ông ta phát biểu dựa trên nhận xét tại chỗ vì chính ông cũng đã tham gia cuộc viễn chinh của Lapierre năm 1847 [108] . Từ tất cả những gì trình bày ở trên, rõ ràng đối với Napoléon III ‘việc Nam kỳ’ trước hết là việc Gia Tô giáo. Tất nhiên tham vọng thuộc địa không phải không có trong đầu ông, nhưng đó không phải là mục đích chính, các ý tưởng của ông hết sức mập mờ về điểm này. Khi ban lệnh viễn chinh Đà Nẵng, ông muốn giải quyết trước hết vấn đề Gia Tô giáo đang làm ông bận tâm; vấn đề kia – thiết lập nền bảo hộ – chỉ là phụ thuộc và sẽ được giải quyết tại chỗ tùy theo tình hình.
TÍNH CÁCH TÔN GIÁO TRONG CUỘC TIẾN CHIẾM ĐÀ NẴNG
Cuộc viễn chinh Đà Nẵng vì thế mang tính cách chủ yếu là tôn giáo; đó cũng là quan điểm của Đô đốc Rigault, của Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa, và của chính phủ Tây Ban Nha. Đó cũng là quan điểm chính thức của chính phủ Pháp. A. Quan điểm của Rigault de Genouilly Khi còn ở Trung Quốc, làm Chỉ huy trưởng căn cứ hải quân Pháp, Đô đốc Rigault de Genouilly đã tỏ ra nhiệt thành với chính sách ủng hộ những quyền lợi Gia Tô giáo ở Viễn Đông. Ngày 27 tháng 6 năm 1857, ông có viết thư cho Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa để trình bày ý kiến đó: “Ông Gros [109] sẽ tìm thấy nơi ông Keying những thuận lợi lớn hơn nơi bất cứ nhà thương thuyết Trung Quốc nào khác để bảo tồn quyền lợi của những thừa sai tại Trung Quốc và chắc chắn đó là một trong các quyền lợi quan trọng nhất của nước ta ở vùng này. Thật vậy, nếu trước hết các thừa sai Gia Tô người Pháp làm công việc truyền giáo, thì họ cũng truyền bá thanh danh và tiếng tăm của nước Pháp trong vùng Viễn Đông này, họ làm cho vùng này biết đến sức mạnh và sự vĩ đại của nước Pháp, danh vọng của Hoàng đế đang trị vì và mở ra cho nước chúng ta các phương tiện ảnh hưởng mà tương lai sẽ chứng minh tầm quan trọng và giá trị” [110] . Tận tụy với các phái bộ thừa sai và với quyền lợi Gia Tô giáo [111] , Rigault de Genouilly đã nhiều lần kêu gọi Bộ trưởng Hải quân chú ý đến “sự đàn áp rộng lớn những giáo dân ở Bắc kỳ”, đến những thỉnh cầu của các thừa sai tại Bắc kỳ, nhất là của giám mục Retord mà ý kiến được Rigault hoàn toàn ủng hộ. Bởi thế, ngày 8 tháng 9 năm 1857, vào lúc tàu Catinat được phái tới Bắc kỳ để cứu giám mục Diaz, người Tây Ban Nha, bị nhà cầm quyền Việt Nam kết án tử hình vì xâm phạm luật pháp trong xứ, ông đã viết cho Bộ trưởng: “Tình thế rất cấp bách, việc giải thoát một giám mục Gia Tô, thuộc một quốc tịch khác và đáp ứng rất tốt danh hiệu Người Bảo Vệ các Giáo dân ở Viễn Đông được dành cho Hoàng đế Napoléon III, đến nỗi tôi không do dự lập tức ra lệnh cho chiếc Catinat sẵn sàng đi đến vịnh Bắc kỳ… Tôi không biết Bá tước Gros, người chắc chắn có sứ mệnh đòi quyền bất khả xâm phạm cho các thừa sai và các con chiên Gia Tô ở Đế quốc Trung Hoa, có được trao quyền để chăm sóc các thừa sai và các giáo dân ở Nam kỳ không. Nếu chưa có thì, theo tôi, cần phải trao quyền đó cho ông ta ngay. Hoàng đế được tín đồ Gia Tô và Tin Lành đồng thanh thừa nhận là Người Bảo Hộ giáo dân Gia Tô ở vùng Viễn Đông này, cũng như Vua Louis XIV trước kia được xem là người bảo trợ giáo dân ở vùng Cận Đông” [112] . Theo Đô đốc, nước Pháp không thể khước từ địa vị ‘người bảo vệ những quyền lợi Gia Tô giáo’ và không thể trốn tránh các nghĩa vụ sinh ra từ đó: vậy phải chấm dứt các đàn áp chống lại tín đồ đạo Gia Tô – các đàn áp đã tạo nên một tình trạng mà Pháp không thể tha thứ được vì nó làm thương tổn phẩm cách và quyền lợi chính trị của Pháp – bằng cách thương thuyết với triều đình An Nam; các thương thuyết này cần phải được đi trước bằng một trận tấn công vào Đà Nẵng “vì đó là cách duy nhất để các thương thuyết được người ta nghe và được kết quả” [113] . Đô đốc Rigault tỏ ra không tán thành kế hoạch xâm chiếm Bắc kỳ do các thừa sai đề nghị; ông ta cũng không nghĩ đến việc thay triều đại đang trị vì bằng một triều đại Gia Tô giáo: theo ông, các hành động như vậy sẽ rất tai hại cho Gia Tô giáo ở toàn vùng Viễn Đông, giải pháp xác đáng cho tình hình nằm “trong một hiệp ước với Nam kỳ bảo đảm tự do của Gia Tô giáo và sinh mạng của các thừa sai người Âu, phỏng theo hiệp ước mà Bá tước Gros sắp ký kết với chính phủ Trung Quốc”. Hiệp ước đó được áp đặt bằng sức mạnh và sẽ được duy trì bằng sức mạnh; nhưng với một mục tiêu xác định như thế, sức mạnh này có thể vừa phải thôi: 1.200 hoặc 1.500 binh lính có lẽ đủ để đánh chiếm Đà Nẵng [114] . Như thế, trước khi nhận các chỉ thị đầu tiên, Rigault de Genouilly không hề nghĩ đến một kế hoạch thuộc địa hóa Việt Nam. Trong đầu của ông, cũng như của Bourboulon, Công sứ Pháp tại Macao, đây chỉ là sự bảo hộ tôn giáo chứ không phải chiếm cứ thuộc địa [115] . Và cả sau khi nhận các chỉ thị, quan điểm của ông có vẻ cũng không thay đổi mấy. Khi Bộ trưởng Hải quân báo cho ông sự tham gia của Tây Ban Nha vào cuộc viễn chinh Đà Nẵng, ông không che đậy sự bất tán thành của ông: “Theo tôi, sự trợ giúp trực tiếp của Tây Ban Nha, ví thử quan trọng đi nữa, cũng không đáng mong muốn; chỉ một lá cờ phải xuất hiện ở Nam kỳ: cờ của chúng ta. Việc liên minh sẽ làm giảm sút địa vị ‘Người Bảo Hộ Gia Tô giáo’ vốn chủ yếu và độc nhất thuộc Hoàng đế Napoléon III, và chỉ có khí giới của Hoàng đế mới được dùng để đạt được những yêu sách cho mọi con chiên dù thuộc quốc tịch nào” [116] . Hoặc là: “Nếu bàn tay mạnh mẽ của Hoàng đế bảo trợ quyền lợi của Gia Tô giáo ở đây thì, trong trường hợp đó, theo tôi, chính bàn tay nhân từ của Hoàng hậu sẽ làm dịu bớt nỗi thống khổ của những giáo hữu của chúng ta…” [117] . Ngoài ra, ông còn thú nhận, trong văn thư đề ngày 26 tháng 1 năm 1858, rằng vấn đề bảo hộ đòi hỏi được nghiên cứu kỹ càng và công việc hằng ngày ở Trung Quốc không cho phép ông bước vào việc nghiên cứu này được [118] . Trong văn thư ngày 29 tháng 1 năm 1859, ông xác nhận lại quan điểm của ông, là: “Mục đích [của cuộc viễn chinh] chính yếu là tôn giáo” [119] . B. Quan điểm của Bộ trưởng Bộ Hải quân và Thuộc địa và luận cứ chính thức của Chính phủ Pháp Trong các văn thư ngày 26 tháng 2 và 25 tháng 3 năm 1857, Đô đốc Rigault tỏ ra ít tán thành sự trợ giúp của Tây Ban Nha và muốn rằng chỉ Pháp mở cuộc viễn chinh Đà Nẵng, để khỏi chia phần với Tây Ban Nha về các nhượng địa mà sau này triều đình Huế sẽ phải chấp nhận. Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa đã bác bỏ đề nghị đó. Trong một báo cáo gởi lên Napoléon III, Đô đốc Hamelin viết: “Viên tướng lãnh này, mà tôi đánh giá cao về tài quân sự, rất ít biết tiết kiệm công quỹ, và tôi tin chắc rằng ông ta sẽ không biết dè sẻn một khi được trao quyền tự kiếm lấy phương tiện, về người hay về vật chất, mà ông ta cần để hành động chống Nam kỳ. Một quyền hạn rộng rãi như thế sẽ có thể khiến ông ta vượt quá ý định của Hoàng thượng và sẽ gợi cho ông ta ý tưởng chinh phục Vương quốc An Nam bằng mọi giá” [120] . Báo cáo này đưa ra hai nhận xét. Thứ nhất, Hamelin chống một cuộc viễn chinh tốn kém, do đó chống một cuộc viễn chinh chinh phục. Thứ hai, ông ta không muốn đi quá xa trong vụ Nam kỳ và đã diễn giải các ý định của Napoléon III theo chiều hướng đó. Được giao phó trách nhiệm thực hiện ý định của Hoàng đế, ông phải được xem là biết rõ các ý định ấy. Vì vậy, quyết định liên minh với Tây Ban Nha thật có ý nghĩa lớn về điểm này: nó cho thấy rằng bận tâm tôn giáo đứng lên trên hết mọi bận tâm khác; Tây Ban Nha chỉ chống chính phủ Việt Nam vì những duyên cớ thuộc lãnh vực đó. Luận cứ do báo chí chính quyền đưa ra cũng xác nhận quan điểm ấy. Tờ Le Moniteur Universel trình bày vụ Nam kỳ như là một can thiệp nhằm đòi hỏi sự khoan dung tôn giáo và bắt buộc bồi thường những xúc phạm đối với những đại diện của Pháp [121] . “Chính phủ của Hoàng đế không thể cho phép việc các đề nghị của mình bị bác bỏ một cách khinh mạn như thế cũng như việc quan tâm ưu ái lại là nguyên nhân của đàn áp”. Khi lấy một cam kết long trọng như vậy đối với người Gia Tô, chính phủ Pháp lao mình vào cuộc phiêu lưu mà họ không đo lường được tầm mức to lớn cũng như không tiên liệu trước những hậu quả. C. Quan điểm của chính phủ Tây Ban Nha Ngày 1 tháng 12 năm 1857, Bộ trưởng Ngoại giao Pháp chỉ thị cho Đại sứ của ông ở Tây Ban Nha, ông Turgot, hỏi xem chính phủ Tây Ban Nha có sẵn sàng góp sức với Pháp hay không trong mục tiêu ngăn ngừa sự tái diễn ‘những thảm họa’ giống như cái chết của giám mục Diaz, công dân Tây Ban Nha. Chính phủ Tây Ban Nha, đang có nhiều bộ binh ở Phi Luật Tân, vội vã chấp nhận đề nghị này, chẳng cần trao đổi với Pháp, trước cũng như sau cuộc viễn chinh, về cái giá mà Pháp phải trả cho sự trợ giúp của họ. Thái độ này khiến ta nhận định rằng dưới mắt chính phủ Tây Ban Nha, cuộc viễn chinh Đà Nẵng là một biểu dương lực lượng nhằm ủng hộ Gia Tô giáo mà chính Tây Ban Nha cũng là người bảo vệ hăng hái. Ghi chú sau đây của Bộ Ngoại giao xác nhận quan điểm này: “Trên nguyên tắc, chúng ta chỉ đề nghị Tây Ban Nha hợp tác vào cuộc viễn chinh bởi vì thừa sai bị sát hại là người Tây Ban Nha; mặt khác, vì lúc ấy ta không biết là cuộc viễn chinh sẽ kết thúc bằng một hiệp ước với Nam kỳ hay bằng sự chiếm cứ hẳn một phần lãnh thổ của xứ này, nên có lẽ ta đã giả thuyết rằng chính phủ Tây Ban Nha như thế là đã thỏa mãn rồi vì khí giới của họ đã mang lại vinh dự cho một cuộc viễn chinh được thực hiện trong sự hợp tác với chúng ta” [122] . Đó cũng là giải thích chính thức của Tây Ban Nha. Thật vậy, Công báo Phi Luật Tân ngày 1 tháng 10 năm 1858 công bố một bức thư gởi từ Đà Nẵng của một người Tây Ban Nha vào hàng quan trọng nhất trong cuộc viễn chinh liên minh, trong đó ta lưu ý đoạn này: “Ngài biết rằng cuộc viễn chinh Nam kỳ, đối với Tây Ban Nha, là một vấn đề thuần túy Gia Tô giáo… một chiến dịch được thực hiện với mục đích duy nhất [của Nữ hoàng chúng ta] là bảo đảm tự do truyền giáo và sinh mạng của những thừa sai nhiệt thành của Nữ Hoàng” [123] . Đại sứ Tây Ban Nha tại Paris cũng viết trong thư đề ngày 4 tháng 11 năm 1862: “Vào lúc quyết định cuộc viễn chinh này, chính phủ của Nữ hoàng chúng tôi nhắm trước mắt hai mục tiêu chính: hợp tác để góp phần trong việc bành trướng nền văn minh cùng ánh sáng Phúc âm tại Nam kỳ, đồng thời lấy làm vui mừng được trợ giúp chính phủ của Hoàng đế trong công cuộc này” [124] . Như vậy, Rigault de Genouilly lên đường đến “Nam kỳ” – nghĩa là Việt Nam – với sứ mệnh chính là bảo vệ, bằng đại bác và tàu chiến, sự truyền giáo của các thừa sai và mang ánh sáng văn minh đến cho dân tộc Việt Nam. Nhân dịp này ông thăm dò khả năng thiết lập một chế độ bảo hộ, nhưng đó chỉ là một mục tiêu hoàn toàn thứ yếu. (Còn nữa).
——————–
[1] Dịch từ tác phẩm: Giáo sỹ Thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam (1857 – 1914) của Cao Huy Thuần.