Văn hóa dân gian Cẩm Lệ – một góc nhìn

604

        Văn hóa dân gian Cẩm Lệ – một góc nhìn

 

  1. VĂN HÓA PHI VẬT THỂ QUẬN CẨM LỆ
  2. Có hay không văn hóa văn nghệ dân gian Cẩm Lệ ?

         Nhiều người (trong đó có các nhà hoạt động văn hóa tại địa phương) cho rằng Cẩm Lệ làm gì có đặc trưng riêng của sinh hoạt văn hóa văn nghệ dân gian. Nếu có chăng cũng là mượn của Hòa Vang. Điều này không gì sai, nhưng phải nhìn nhận rằng trong kho tàng văn hóa văn nghệ dân gian Hòa Vang có phần riêng có của Cẩm Lệ.

         Văn hóa dân gian ra đời, tồn tại và phát triển gắn với sinh hoạt văn hóa tại các cộng đồng dân cư của người lao động mà cộng đồng có tính quyết định là không gian dân gian làng / xóm. Ở đó văn hóa, văn nghệ dân gian nảy sinh và phát triển và đi theo cùng đời sống tinh thần của người dân, Theo đó, các thành tố văn hóa dân gian hẳn phải có tính riêng có của mỗi làng / xóm như dân gian người Việt thường nói chiêng làng nào làng ấy đánh / Thánh làng nào làng ấy thờ là biểu hiện tính riêng có của văn hóa văn nghệ dân gian, tức là đặc trưng dân gian của làng ấy.

  1. J. Thom (người Anh) đưa ra thuật ngữ văn hóa dân gian năm 1846, thuật ngữ này chỉ sinh hoạt phong tục, tập quán, các nghi thức, tính ngưỡng dân gian, ca dao, tục ngữ, sự mê tín, dị đoan,…của người thời trước. Ở Việt Nam thuật ngữ folklore sử dụng đã lâu và được hiểu theo nhiều cách lúc thì văn học bình dân, văn hóa dân gian, lúc thì văn học dân gian nay các nhà nghiên cứu thường gọi văn hóa dân gian.

         Hiện nay ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu tổ chức sưu tầm, điều tra, ghi chép, nghiên cứu văn hóa dân gian trên các lĩnh vực:

         – Ngữ văn dân gian, bao gồm thể loại: loại tự sự, thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, truyện cười, ngụ ngôn, vè, sử thi, truyện thơ,…; loại trữ tình: ca dao, dân ca, hò hát,…; loại bao gồm: thành ngữ, tục ngữ, câu đố dân gian,…

         – Nghệ thuật dân gian bao gồm: nghệ thuật tạo hình như kiến trúc, hội họa, trang trí,…; nghệ thuật biểu diễn: âm nhạc dân gian, múa, sân khấu dân gian,…

         – Tri thức dân gian bao gồm: tri thức về môi trường tự nhiên như địa lý, thời tiết, khí hậu,…; tri thức dân gian về con người, bản thân, về y học; tri thức ứng xử giữa cá nhân với cộng đồng, xã hội,…; tri thức trong lao động sản xuất như kỹ thuật và công cụ sản xuất,…

         – Tín ngưỡng dân gian, phong tục và lễ hội.

         – Trò chơi dân gian.

         Văn hóa dân gian là một thực thể sống, nảy sinh, tồn tại và phát triển gắn với sinh hoạt cộng đồng dân cư của người dân lao động. Theo đó khi nhận thức hoặc giải thích các hiện tượng của văn hóa dân gian phải đặt chúng vào môi trường sinh hoạt của nó, tức gắn với sinh hoạt của cộng đồng dân cư nhất định, trong đó cộng đồng làng / xóm có tính quyết định và góp phần quan trọng cho sinh hoạt văn hóa văn nghệ làng xóm còn phải kể đến cộng đồng tộc họ.

         Văn hóa trong đó có văn hóa dân gian là sản phẩm của cộng đồng, sau khi hình thành ổn định trong cộng đồng dân cư, đến lượt nó tác động trở lại cộng đồng với tư cách là nền tảng tinh thần, là động lực của sự phát triển xã hội.

         Theo cách hiểu như vậy, liệu quận Cẩm Lệ xưa nay có nảy sinh hoạt động văn hóa văn nghệ tại vùng đất này không ?

         Theo chân những người đi trước, ngược về quá khứ, ta tìm gặp ông cha ta ngày trước có tổ chức các sinh hoạt văn hóa văn nghệ dân gian ngay trên làng xóm mà họ sinh ra, lớn lên, trưởng thành và xây dựng, và con người nơi đây đã tạo nên nét đặc trưng riêng có của họ thông qua con đường truyền miệng.

         Cho đến nay mà nói văn hóa truyền miệng làng xóm luôn vượt trội so với văn hóa đô thị, văn hóa truyền miệng mạnh hơn văn hóa bác học thành văn, ta xem tình cảm nặng hơn lý trí, chủ nghĩa yêu nước trở thành hệ ý thức Việt Nam và đó cũng chính là giá trị văn hóa Việt Nam. Cộng đồng cư dân Cẩm Lệ nằm trong dòng chảy đó, văn nghệ dân gian được giữ gìn, phát huy và phát triển.

         Trước hết xem ở Cẩm Lệ – một số vấn đề văn hóa tiêu biểu có không (ở đây chúng tôi khảo sát một phần dưới góc độ văn hóa văn nghệ dân gian phi vật thể của Cẩm Lệ nhìn từ quá khứ). Trong các thể loại của văn học dân gian, ở Cẩm Lệ thể hiện gần hết các thể loại, loại hình mà văn hóa dân gian hiện đang được nghiên cứu. Ta gặp trên vùng đất Cẩm Lệ các loại thể: tục ngữ, ca dao, đồng dao, hò (hò khoan đối đáp), vè, chuyện kể dân gian (giai thoại, truyền thuyết, sự tích,…). Trong chuyên đề này chúng tôi chỉ đề cập đến một số ít trong nhiều thể loại văn hóa văn nghệ dân gian mà người dân Cẩm Lệ đã sáng tạo nên trong tiến trình phát triển của mình và trong các thể loại đề cập đến, chúng tôi đưa ra một số ví dụ để chứng minh rằng, tại Cẩm Lệ có cái riêng có của họ.

1.1.Tục ngữ

         Nếu chịu khó điền dã sưu tầm chúng ta sẽ bắt gặp nhiều câu tục ngữ nảy sinh trong lao động sản xuất tại các làng / xóm trên địa bàn quận Cẩm Lệ ngày nay:

         – Mít Hoà An mấy làng biết tiếng 1.

         – Khen thay con gái Hoà An,

         Sáng đi bán mít, chiều sàng gạo thơm.

         Thì đấy là trong lao động sản xuất như một lời khen ngợi con người trên vùng đất ấy.

1.2. Ca dao

         Về tình yêu quê hương đất nước

         Ca dao tại Cẩm Lệ, qua điều tra, sưu tầm ghi chép lại được chúng tôi khẳng định rằng các làng xóm đã từng có sinh hoạt văn nghệ dân gian, đấy là sinh hoạt văn hóa văn nghệ của cộng đồng làng xóm còn ảnh hưởng đến con người đương đại ngày nay, lấy ca dao làm phương tiện trao đổi giao lưu, ngợi ca nhân nghĩa, tình người. Không chỉ trong sinh hoạt thường ngày như lao động, quan hệ xã hội, tình yêu đôi lứa mà ngay cả trong hai cuộc kháng chiến ca dao vẫn thể hiện hiện tinh thần đấu tranh giữ nước và dựng nước của người Cẩm Lệ, thể hiện tính nhân văn sâu sắc.

         – Nước sông Hàn chảy qua cầu Cẩm lệ

         Anh thương em về thưa với mẹ cha

         Hai ta cùng đất Quảng Đà

         Cùng nguồn nước chảy hai ta gội đầu.

         -Ai từng dời gót Hà Thân

         Ghé lên Chợ Huyện [1] bước sang Chợ Cồn [2]

         Nơi đây Cẩm Lệ tiếng đồn

         Mùi thơm thuốc lá đất còn ngàn muôn…

         Về tinh thần chống giặc ngoại xâm

         – Anh đi lánh nạn Trung Lương [3]

         Cho tui nhắn gửi người thương Cồn Dầu [4]

         Nước nhà nguy biến đã lâu

         Ai thương Tổ quốc quay đầu về đây

         Về đây chung sức giết Tây

         Diệt tề, đánh nguỵ, dựng xây xóm làng.

         -Đây đất mẹ, đây lời non nước

         Nặng nghĩa tình sau trước một lòng

         Đã sản sinh ra bao lớp anh hùng

         Chẳng quản phụ với dòng sữa mẹ

         Đà Nẵng, Sơn Trà, Miếu Bông, Cẩm Lệ

         Chuyện trăm năm còn kể trận mù u [5].

         Về lao động nghề nghiệp

         -Em là con gái Tân An [6]

         Buôn tần, bán tảo [7] chợ tan chưa về.

         Về quan hệ xã hội

         – Cậu ơi! Tui ở với cậu mợ

         Tiết tháng năm tui đi đập đất gieo

         Về để cái dồ ngoài sân

         Mợ chạy ra nghiêng tai nói nhỏ:

         “Con vô mần giấc trưa!”

         Nam: Con kia, mi đừng nói lừng khừng

         Xung điên bắt rắn bỏ quần mi phải khai

         Nữ: Bụng đàn bà, dạ con nít

         Thấy rắn phải la làng

         Rắn không phải rắn

         Nó vàng vàng như chú lươn.

         Nam: Giống lươn là giống hay trườn

         Lấy rổ phân úp lại bốn cẳng giường tau chần lên [8].

         – Đêm khuya nghe gà gáy ó…o…

         Giựt mình thức dậy, tui mò tui vô

         Động giường thức dậy mợ la,

         Mợ gọi: thằng Xứng, chớ mày đi mô ? [9]

         Tui nói: đi vô lấy gạo nấu cơm

          Có ái ống không biết cái ô ở chỗ nào

          Mơ màng giấc điệp chiêm bao

         Mợ nói: ô đây, ống đó con lấy nhào đi mà ra

         Đêm khuya tui ở cà rà

          Mợ xung điên nắm ống, mợ cà muốn bể ô [10].

          – Nam: Giương cung bắn xỉ con cò

           Thường ngày thường tới thường mò cá tôm

          Nữ: Hữu nhãn vô châu thầy thấy đâu thầy bắn,

          Ra tận chiến trường trắng trợn mắt mây.

          Nam: Hữu nhãn vô châu thầy cũng thấy mờ mờ,

          Dù bắn không trúng, thầy rờ thầy đâm [11].

         – Nữ: Quý chi một quấu một quào [12]

          Rúc qua, rúc lại cái rào tan hoang.

          Nam: Bù chao chẳng phải bù chao

          Chàng làng không phải chàng làng

          Con chim ni khôn toan khó liệu

          Có người ở cận thân thích điểu [13] tau mới hỏi thăm

          Ờ, ờ nghĩ lại mà nhằm

          Con chim ni cắn cặt [14] mọi năm trên giàn

          Phá bầu, phá bí tan hoang

          Bữa nay ngộ gặp, tau bắn càng mũi tên [15].

          Nam: Đời chừ trai muốn làm đàn bà không

                      muốn làm đàn ông

           Tui đi tuốt ra Huế rèn cái dao cho tinh thần

           Rèn về hớt trớt cục gân

           Hớt hai trái ứ, ra thân đàn bà

          Hớt rồi quăng trái ngõ ba

          Mấy chị em gái lượm mà bỏ khăn

          Bỏ rồi thích chí nhăn răng cười khì

          Nhà tôi có một cối đâm

          Đem về mà giã, mà cầm cho sướng tay

          Khen cho cái loại thậm hay

         Để dưới đất hắn nhỏ, cầm trên tay, lớn thình.

          -Nữ:

         Giống chi[16], một năm ba đồng sáu giác chừng mô!

          Tốn hao chi đó bạn hớt bộ đồ cho oan ?

         Tử tôn ai nói thiệt lời

         Ngày sau nấm lở, mộ tàn ai vun

         Anh hùng có chứng nói cuồng

         Gia bần, trí đoản [17] hết khuôn anh hùng

         Nói ra không sợ chị em cười

         Một năm ba đồng sáu giác không có,

                         xin người, người cho

         Bạn về đắp chiếu ngủ co

         Để lo đàng hương khói chớ lo chi mà hớt đồ

         Hớt rồi không biết quăng mô

         Quăng đường thiên lý lộ, chó tha vô nhớp nhà.[18]

Tình yêu đôi lứa

         – Chim chi đầu đỏ mỏ vàng

         Bay ngang Cẩm Lệ hỏi chàng bớt chưa ?

         Hai hàng nước mắt như mưa

         Tay giở chiếc chiếu tay đưa bình dầu

         Chàng ơi ngồi dậy xức dầu

         Ăn cơm uống nước đừng có phiền rầu, hư thân !

         – Cũng vì chàng mà thiếp bị đòn roi

         Không tin giở áo ra coi dấu lằn.

         -Đưa em cho tới Hà Khê [19]

         Bắt tay em lại, chữ đề ba câu

         Câu thương, câu đợi, câu chờ

         Duyên đôi ta ngộ gặp, làm lơ sao đành

         Chim kêu dưới suối, trên gành

         Ta không bỏ bạn, bạn đừng liệu bề bỏ ta.

         – Giả đò đi chợ Miếu Bông [20],

         Ghé vô thăm bạn, bạn không có nhà!

         – Giã đò xách giỏ hái dưa

         Xăm xăm nước tới hói Dừa gặp nhau [21]

         -Lạy trời đừng nắng, đừng mưa

         Âm u gió mát thiếp đưa chàng về

         Chàng về tới đất Hố Quê [22]

         Xây lưng trở lại ủ ê gan vàng

         Đêm nằm thờ thở than than

         Trông trời mau sáng lên đất Nghi An [23] gặp mình

         Duyên ba sinh, nợ ba sinh

         Trời đâu xuôi khiến hai đứa mình xa nhau.

Về tình yêu đôi lứa

         – Chim chi đầu đỏ mỏ vàng

         Bay ngang Cẩm Lệ hỏi chàng bớt chưa ?

         Hai hàng nước mắt như mưa

         Tay giở chiếc chiếu tay đưa bình dầu

         Chàng ơi ngồi dậy xức dầu

         Ăn cơm uống nước đừng có phiền rầu, hư thân !

         -Đưa em cho tới Hà Khê

         Bắt tay em lại, chữ đề ba câu

         Câu thương, câu đợi, câu chờ

         Duyên đôi ta ngộ gặp, làm lơ sao đành

         Chim kêu dưới suối, trên gành

         Ta không bỏ bạn, bạn đừng liệu bề bỏ ta.

         – Nước sông Hàn chảy ngang cầu Cẩm Lệ

         Anh thương em, để về thưa với mẹ cha

         Hai ta cùng đất Quảng Đà

         Cùng dòng nước chảy hai ta gội đầu.

1.3. Vè

         Vè là một thể loại văn học dân gian, được diễn xướng trong cộng đồng thông qua các nghệ nhân trong làng xã. Vè theo chân các nghệ nhân dân gian đi nói vè tại các tụ điểm đông người. Dần về sau, vè cùng với cặp sênh (sinh tiền) gõ nhịp, đưa lời, đôi khi các nghệ nhân khéo léo đưa làn điệu vào vè để nói vè có hơi thở của “văn nghệ”, và biến một cuộc nói vè có phần hấp dẫn hơn trước đám đông người qua lại. Nói vè trở thành một loại hình diễn xướng dân gian rất hấp dẫn và phát triển tại đất Cẩm Lệ một thời. Vè được sử dụng thể hiện nhiều mục đích khác nhau trong sinh hoạt văn hoá làng xã chính đó, khi nói đến đất Quảng Nam ngoài kho tàng ca dao dân ca chưa mưa đà thấm, người ta còn biết đến thể loại vè. Cẩm Lệ không ngoài không gian văn hóa đó. Đây là một trong những thể loại tạo nên đặc trưng riêng của người Quảng Nam, gần như đã mang tính trội của người Quảng, trong đó hẳn nhiên có vùng Hoà Vang, Cẩm Lệ nữa.

-Kể từ Tây lại cửa Hàn[24]

Lệnh trên đại Pháp dọn đường đi chơi

Chơi đà đủ thứ khắp nơi

Dẫn lên Tây béo[25], đi chơi Phước Tường[26]

Tai nghe ông Hãn có một cái vườn

Ảnh[27] ham hoa lợi tìm đường hỏi thăm

Hương Ích khi ấy đương nằm

Lão Hãn kêu hỏi:” Vườn nầy vườn ai ?

Vườn nầy tổ phụ lưu lai

Ông mua tui bán, không ai dám giành

Tứ phía rày bởi rẫy tranh

Truy tô nhập lại mấy anh trong làng[28]

Lão Hãn nghĩ thế cũng an

Dẫn vùng kho bạc[29], dẫn sang vườn Bành

Dẫn qua hố Sỹ, hố Lê[30]

Dẫn lên mả Lạc, dẫn về vườn Niên

Kho bạc ỷ thế ỷ quyền

Mời làng tới hỏi, bộ biên[31] đất nào

Hương Ích mở miệng thưa vào

Ông mua tui bán ngang rào sắp lên

Cai Huệ đứng lại một bên

Lão Hãn kêu hỏi:” Hai tên dân nào ?

“Tui là con cháu lý, hào làng ni[32]

“Tui đây vốn thiệt cu ly

“Làm cho ông Hãn vậy thì đã lâu

“Hai đứa tui vốn thiệt mần màu

“Về Hàn lấy đậu, tỉa đâu mọc liền

Hai đứa bay làm lụng cho chuyên

Vườn ông xinh tốt, bạc tiền phát cho

Hai đứa bay làm lụng biết lo

Vườn ông cỏ sạch, ông cho bạc hoài

Kho bạc rày biểu Huệ coi

Cu li đôi tháng trong ngoài cho chuyên

Vườn Niên rày đã đà yên

Dọn thẳng gò Mạch, dọn xuyên gò Vàng

Tưởng là dọn chững[33] không an

Hay mô ông dọn gò Sàng, hố Tre

Tưởng là ông dọn đàng đi xe

Hay mô ông dọn ông be cái hồ[34]

Hai anh em mình nhắm địa đồ

Dọn thẳng rẫy Hoách, dọn vào hang Giơi

Tưởng là dọn đàng đi chơi

Hay mô ông dọn kiếm nơi lập vườn

Hồi đầu lấy rẫy ông Hương

Sau lấy rẫy Thủ Chánh, lập vườn hố Giông

Việc làm rày đã mênh mông

Bắt đó dọn thẳng dinh Ông[35] một đàng

Dọn thẳng rẫy Thủ Chánh, dọn hồ binh linh

Trong làng mới rõ sự tình

Làm cho Thái tộc[36] làng mình tính sao

Thằng Tây đã dọn đàng bao[37]

Chờ cho chủ nhật biết làm sao đặng nhờ

Thằng Tây thừa bữa tri cơ[38]

Chờ cho chủ nhật, đào bờ trồng cây

Làng mình truyền hết dân bay

Tự lớn chí nhỏ, bay lên đứng đầy rẫy tranh

Bây lên cứ việc bây giành

Cu li đào hục[39], bức dây xanh[40] trói liền

Kho bạc ỷ thế, ỷ quyền

Về Hàn phúc sự chiều liền cò[41] lên

Cò lên làng đứng hai bên

Cò kia vô giấy, dẫn lên trên đồn

“Làng bay quá ngữ, lộng ngôn

“Việc chi còn đó, dại khôn có tòa

Việc nầy ai sử đầu ra[42]

Cò kia vô giấy dẫn qua bên nầy

Ông Hương, ông Thủ, ông Xã, ông Thầy

Lạy quan đại Pháp việc nầy không gian

Cấm lớn, cấm nhỏ vốn thiệt của làng

Năm ba cái cấm[43], thuế quy nộp thường (liền)

Cấm lớn, cấm nhỏ cũng nhường cho ông

Hố Sung cho chí hố Giông

Làng tui cũng nhượng cho ông cả rồi

Chỉ còn một chút ngôi gò Đình

Để khi tế tự âm linh, thổ thần.[44]

-Đất Nghi An là nơi quê quán

Đất Đông Phước [45] là đất ngoại tông

Chẳng phải quê mẹ mà chẳng phải quê ông

Thường ngày xách nón băng đồng hồi gia

Quê người ta xứ sở người ta

Mình vô danh vọng, bôn ba hại mình

Người sao có chứng binh linh

Nghĩ ra đáo lý không tình nghĩa chi

Người người không biết chữ thị phi [46]

Chê đây, lấy đó hơn chi nơi nào

Bạn ở làm chi tác lớn tuổi cao

Ninh thọ tử bất ninh thọ nhục [47]

Không kiếm nơi nào cho xong

Người sao có chứng hai lòng

Muốn thương bên nớ cùng tròng  bên tê

Người đời có chứng dâm mê

Chữ  ô danh nan thục [48] họ chê, họ cuời

Cầm vàng trên tay không biết vàng mười hay vàng năm

Hằn chi họ nói có nhằm

Ai đời thấy rể ăn nằm cùng bà gia

Chầu rày lậu tiếng về nhà

Chữ ô danh nan thục biết cái mặt chàng dại khôn.

         Và còn nhiều bài vè khác như vè Ô danh nan thục, vè địa giới, vè ghẹo gái, vè bà Em, vè con Xáng, vè Ba Ngôn, vè lấy trai, vè ông Phú, vè bán bia,…

         1.4. Về hò khoan đối đáp

         Cùng với hành trang của người xứ Quảng trên con đường Nam tiến, khai phá giang sơn, họ “gánh theo tên làng tên đất” đi theo cùng với bước chân từ những ngày đầu mở đất. Những điệu hò là niềm vui, là nỗi lòng, là nguồn động viên họ trong lao động quên mình trước những khó khăn thử thách. Hò khoan đối đáp của Cẩm Lệ xuất hiện trên cơ sở đất đai, sông núi, tình người và mối giao lưu với các tộc người bản địa để từ đó tìm được môi trường diễn xướng, phổ biến và rất được ưa thích ở xứ Quảng.

         Để hát được, bạn hát thường tập trung trên sân một nhà bạn hát nào đó, hoặc dưới luỹ tre làng trong lúc xay, giã gạo dưới ánh trăng tròn. Đôi khi trên các chiếc ghe neo đậu cửa sông,… vào những đêm trăng sáng cũng có thể hát được. Để được hát hò khoan đối đáp, đôi khi các bạn hát vượt một quãng đường dài sang làng khác để hát tìm vui, kết tình nam nữ… Thanh niên trai tráng vùng đồng bằng thường lội bộ từ Đông Phước, Nghi An xuống tận Hố Quê (Khuê Trung) để hát đối đáp với nhau [49]. Theo dấu chân của họ, ngày nay ta còn tìm thấy được con đường đi hát hò khoan ngày xưa: Lạy trời đừng nắng đừng mưa/ Âm u gió mát thiếp đưa chàng về/ Chàng về tới đất Hố Quê/ Xây lưng trở lại ủ ê gan vàng…, điều đó cho hay rằng trước kia, các làng trong cùng một vùng thường lên xuống thăm chơi và hát hò khoan huê tình. Hoặc đi ra phía ngoài lại gặp các bạn hát hò khoan từ Tân An, Đông Phước, An Khê hát với nhau: Đưa em cho tới Hà Khê/ Nắm tay em lại chữ đề ba câu/ Câu thương, câu đợi, câu chờ/ Duyên đôi ta ngộ gặp làm lơ sao đành! Hoặc trai thanh nữ tú tổng Bình Thái hát hò khoan với các chàng lực điền bên Phong Lệ của tổng Thanh An, đã được các cô ngộ nghĩnh đùa vui hài hước: Hớt cái l. quăng chũm xuống sông/ Để trai Phong Lệ hết phương rình mò.

         Điều đó cho biết rằng con đường đi hát của các bậc tiền nhân xưa không chỉ quanh quẩn trong mỗi làng mà họ đã mở rộng không gian cho những lần hò hát. Ngày trước, một làng không phải nhiều, chỉ chừng đắc bách nhơn nên thanh niên nam nữ cũng ít. Lại thêm trong làng phần lớn là định cư của một đến hai, hoặc ba tộc họ lớn nên việc hát với nhau xưa kia không được khuyến khích mà phải đi tìm bạn hát ở những làng lân cận. Chính đó, có thể nói rằng hát hò khoan tại Cẩm Lệ là một sự tìm kiếm người tâm đầu ý hợp để làm quen. Phương tiện để hát thường là những công việc lao động hằng ngày như giã gạo, giã vôi, leo dốc, chèo thuyền, kéo lưới… bứt đậu, xâu thuốc, xắt sắn, xắt khoai,…đôi khi không có công việc trong những ngày nông nhàn, thanh niên  nam nữ tập trung lại dùng trấu để giã mà hát với nhau.

         Danh xưng Bình Khuê Cẩm gắn liền với hiện tượng văn nghệ dân gian làng xã, ra đời sau năm 1945 tại ba làng Bình Thới, Khuê Trung, Cẩm Lệ. Không phải ngẫu nhiên mà dân ba làng tại đây ghép tên xứ sở mình để có danh xưng Bình Khuê Cẩm. Tại vùng đất ba xã thị thành này, các nghệ nhân lập một đội hát bộ, bài chòi, lấy tên ba làng Bình – Khuê – Cẩm đặt tên cho đội hát, từ đó danh xưng Bình Khuê Cẩm ra đời. Điều đó cho hay rằng tại vùng đất này từ trước đã có cái riêng có của họ hòa chung trong không gian văn hóa dân gian đất Quảng.

1.5. Về Chuyện kể dân gian

         Chuyện kể dân gian vùng Cẩm Lệ không có đủ các loại thể, song qua nhiều câu chuyện cho chúng ta ngày nay biết được con người Cẩm Lệ không phải không ứng tác những câu chuyện dân gian gắn với đời sống thường ngày. Chuyện kể dân gian với hiện thực lịch sử, xã hội tại vùng đất này mà nó nảy sinh phản ảnh bản chất tâm lý của con người trên vùng đất ấy. Một số thể loại có mặt tại vùng Cẩm Lệ như truyền thuyết có : Sự tích cây thuốc lá ; giai thoại có [50]: Thiếu niên đăng cao khoa, Chú rớt rồi, Tôi là sinh đồ, Đãi tiệc các quan, Hết mía mới hết đường, Một cuộc chia làng, Mừng đón tân quan, Câu đối viếng chồng,… thể hiện bản lĩnh và tư duy của người Cẩm Lệ là thế nào trong đời sống tinh thần của người dân làng xã.

         1.5. Về lễ hội dân gian

         *Lễ hội  Mục đồng làng Phong Lệ (nông nghiệp)

         Lịch sử hình thành vùng đất Phong Lệ đến nay đã trên 600 năm. [51] Người Phong Lệ là những cư dân vốn xuất thân là người làm ruộng, vì thế với những kinh nghiệm và ngành nghề sản xuất nông nghiệp luôn là nghề chính (nông vi bản), chủ yếu của nhân dân. Do đó, người làng Phong Lệ khi đã có mảnh ruộng, thửa vườn, với công cụ con trâu, cái cày, cộng với sự khai thác, xây dựng, cải tạo sông nước, đê đập, phân, giống cây trồng, vật nuôi… họ đã gắn bó với ruộng đồng, vườn tược, bốn mùa nông tang cày cấy, được xem là yếu tố quyết định sự tồn tại, sinh thành của cộng đồng người dân tại đây.

         Trong quá trình phát triển làng xã cho đến ngày nay, làng Phong Lệ không khác những làng quê khác, là sớm hình thành những thiết chế, cơ sở vật chất gắn với đời sống, sinh hoạt và văn hoá tinh thần, tín ngưỡng tâm linh, đấy là những xóm thôn, nhà ở, đình làng, nhà thờ, lăng miễu, từ thô sơ đến kỹ thuật xây dựng đạt tới độ nghệ thuật ở một vài công trình còn được gìn giữ tôn tạo. Gắn với những gì ra đời từ bước chân đầu tiên của lưu dân đến vùng đất mới này là những phong tục, tập quán được hình thành; giềng mối gắn kết giữa các họ hàng, dòng tộc; giữa con người với thiên nhiên; giữa cái vô hình với thế giới hữu hình là sự thờ cúng tổ tiên, thần linh (dẫu thần linh là sự mơ ước, ngưỡng vọng trong tâm tưởng). Nhưng chính những phong tục tập quán như các vị cao niên còn sống và chứng kiến ngày nay đều coi là lễ nghi thiêng liêng thuần Việt. Trong đó Lễ hội Mục đồng, có khi dân làng gọi là Lễ Rước Mục đồng, hoặc hát Mục đồng là sáng tạo dân gian trong một không gian làng xã mà đối tượng đứng ra lo liệu là giới chăn trâu, có các chức sắc phụ giúp và dân của làng, không phân biệt đẳng cấp, giàu sang, nghèo hèn, ông chủ hay người làm thuê, đều chia sẻ cùng nhau sự náo nức vui tươi. Một nét đẹp văn hoá giàu màu sắc đóng góp vào kho tàng văn hoá văn nghệ dân gian dân tộc, làm nên sự đa dạng, phong phú mang đậm bản sắc vùng, miền.

         Phong Lệ xưa còn là một trong những làng quê được coi là nơi nổi tiếng hiếu học và giàu lòng yêu nước, có nhiều nho sĩ, sĩ phu ra ứng thí đỗ đạt và làm quan văn, võ cương trực, không khuất phục, lòn cúi trước kẻ thù và các lực lượng cường hào phong kiến. Như trường hợp họ Ông, một họ tộc gốc Chăm là tộc họ lớn của người Chăm, có mặt sớm  (người bản địa) ở đất Cẩm Lệ xưa. Ông Ích Khiêm là người ở làng Phong Lệ vốn xuất thân từ “giới” chăn trâu, nhưng lớn lên chịu khó học hành, lại vinh hiển qua đường khoa bảng cùng với lòng yêu quê hương tha thiết đã gội nhuần tư chất là một Ông Ích Khiêm dũng tướng can trường nghĩa khí [52], rồi liệt sĩ Ông Ích Đường [53], là những nhân vật đã đi vào sử sách về sự dũng cảm hy sinh, xả thân vì nước vì dân, coi cái chết nhẹ như lông hồng, đã để lại tấm gương trung liệt cho con cháu trong làng và cho đất nước.

         Dòng sông Yên xuôi xuống đến đoạn Cầu Đỏ, chiếc cầu trên quốc lộ 1A, rồi từ đó là sông Cẩm Lệ chia tách hai làng làm đôi là Phong Lệ Nam và Phong Lệ Bắc, nơi có lăng mộ Ông Ích Khiêm và mộ phần dòng họ Ông cùng mộ các chư phái tộc yên nghỉ.

         Ngày nay, khi đi ngang qua vùng đất Quảng, đến làng Phong Lệ (nay là Phong Nam) thuộc xã Hòa Châu, huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng nếu lắng nghe quá khứ thì quá khứ vẫn còn vọng đến hôm nay âm hưởng thiết tha về một thời kỳ giới chăn trâu có dịp làm chủ làng mình, hội mình. “Nhất Phong Lệ Mục đồng /Nhì Giáng Đông đấu vật” là một tập tục lâu đời tồn tại trong nhân dân ở đây và đã trở thành niềm tự hào của họ – một niềm tự hào chính đáng về một phong tục Lễ hội giàu sức sống nhân văn bền chặt ở làng quê yên bình này.

         * Lễ hội hạ điền làng Lỗ Giáng

         Ở làng Lỗ Giáng ngày xưa có các lễ hội diễn ra ở đình làng như: Lễ hội Thần Nông, còn gọi là lễ hội xuống đồng, thường tổ chức vào ngày mùng 1 tháng 10 âm lịch, cầu cho mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt, bội thu. Sau ba hồi trống lệnh, các hộ nông dân mang xôi gà đến đền thờ Thần Nông để cúng. Giữa lễ cúng, vị chủ bái vẫn khăn áo chỉnh tề đi đến vạt ruộng rộng 4 m2 đã được cày sâu bừa kỹ, cùng với năm bó mạ, vị chủ lễ bước xuống ruộng và cấy năm bó mạ, sao cho sau khi cấy xong 4 m2 ruộng mạ vẫn còn thừa mới tốt. Cấy như thế tượng trưng cho việc mở đầu vụ mùa mới. Trong lễ hạ điền, dân làng tụ họp bàn chuyện làm ăn, cụ thể như cấy giống lúa gì để mùa tới đạt năng suất cao, nhà nào thừa mạ, thiếu mạ đều được bàn bạc giúp đỡ và mua đổi ngay tại đình làng. Đến tối dân làng tổ chức vui chơi, lúc này sân đình sáng rực ánh đèn lồng, đuốc, rộn rã tiếng kèn, tiếng trống và một tràng pháo khai mạc đêm vui. Các cụ phụ lão, thanh niên nam nữ trong làng đều tề tựu đông đủ, cùng hát hò khoan, kéo co, đẩy cây…cuộc vui mang tính chất khuyến khích về nông nghiệp và cho đến gần sáng thì dứt [54].

         * Lễ hội đua ghe làng Cẩm Lệ (ngư nghiệp)

         Xuôi về làng Cẩm Lệ xưa, ở đó ta gặp lễ hội đua ghe vào dịp cuối năm âm lịch mà các thành tố « sái », « phong » dân gian trong lễ hội là cái riêng có của hội đua ghe làng Cẩm Lệ. Đây là một tục lệ lâu đời gắn liền với vùng đất vừa có sông, vừa có gò đồi, ruộng đồng, phản ánh sinh hoạt nghề nông, vừa là nghề sông nước.[55].

         Hội đua ghe trên sông Cẩm Lệ là một trong những lễ hội có tiếng tạo nên ấn tượng lâu dài trong nhân dân Cẩm Lệ. Huyện lỵ Hòa Vang một thời đóng tại Hóa Khuê Trung Tây, vì thế mà hội đua ghe tổ chức trên sông Cẩm Lệ có khả năng ảnh hưởng đi xa. Lệ đua, năm đua nhỏ hoặc đua vừa gọi là năm Sái. Sái chỉ có lễ nhẹ vào 25 tháng 1 âm lịch, có tổ chức đua nhưng không quy mô, không phát thưởng trọng thể. Hai năm Sái cũng là hai năm vòng một để tuyển chọn và luyện tay nghề, phát triển đội mạnh, phát hiện những tay đua trẻ có tài, kịp bồi dưỡng theo dõi, nâng đỡ để vào đua chính thức chọn đội hoặc tay đua xuất sắc nhất lập đội tuyển của huyện.

         Đua Sái đi liền hai năm liên tục, sau đó dồn lực lượng cho năm Phong, năm Phong tổ chức đua quy mô, có phát thưởng trọng thể, huyện chủ trì hội lễ. Năm Phong, đội đua nhiều, tay đua mới lạ, nhiều xã trong huyện cử đội đến tham gia. Năm Phong quy tụ chừng 15 đội.

         Trước khi đua, lễ tổ chức theo nghi thức cổ truyền tại miếu Bà và có đọc bài văn tế. Nghi thức hành lễ giống như lễ tại đình làng trong tế xuân và tế thu hằng năm của làng Cẩm Lệ. Lễ bắt đầu từ tờ mờ sáng ngày 25 tháng giêng. Sau lễ là hội đua, có năm quy tụ: Cẩm Chánh, Cẩm Bắc, Cẩm Nam, Cẩm Bình, Bình Thái, Phong Lệ, Nam Ô…cử đội về tham dự. Dân từ các nơi đổ về xem rất đông, tạo cho lễ hội đua ghe thêm náo nhiệt.

         Hội đua ghe tại làng Cẩm Lệ đăng cai trước 1945 là lễ hội lớn, là sinh hoạt hội hè có giá trị về mặt văn hóa tinh thần của nhân dân. Hội đua ghe còn là nơi phát huy tính tập thể, học tập kỹ thuật đua chèo, là nơi những tay đua giỏi nổi tiếng truyền “miếng” lại cho những tay trẻ mới vào nghề.

         Hội đua ghe ở Cẩm Lệ còn là tinh thần coi trọng nghề nghiệp trên sông nước, đồng thời cũng là dịp nhân dân chăm sóc bờ sông, sửa đắp những đoạn lở, bồi. Đua ghe còn phát huy tính độc lập tự chủ trong lễ hội, rèn luyện thủy quân.

  1. NHỮNG VẤN ĐỀ VĂN HÓA LỊCH SỬ KHÁC LIÊN QUAN ĐẾN CẨM LỆ
  1. Về giáo dục

          Ngay sau khi thành lập huyện Hoà Vang không lâu, do nhu cầu học tập, trao dồi chữ nghĩa thánh hiền nên người Hòa Vang cũng đã kịp thời mở trường cho con em học tập. Tuy có rất nhiều khó khăn, song trên địa bàn rộng lớn này đã có trường học. Bấy giờ trường mở ra để dạy chữ Nho, đào tạo tầng lớp trí thức Nho học, tuyển chọn người tài đức phục vụ trong hệ thống chính quyền phong kiến. Tuy nhiên, con em nhân dân là sĩ tử, sinh đồ và con em nhân dân nghèo khó, thuộc tầng lớp bần cố nông đến trường rất thấp, tỉ lệ đi học từ 5 – 10 %. Trường học, ngày ấy là “Trường huyện nằm ở phía Tây huyện lỵ, thuộc xã Hóa Trung Tây, được xây dựng từ năm Minh Mạng thứ 5. Đến năm Tự Đức thứ 11, quân Pháp đổ bộ vào Đà Nẵng, binh lính đóng ở bến Cẩm Lệ, trường phải dời đến phía nam đại đồn Nghi An thuộc địa phận xã Đông Phước” [56]. Đấy là trường học đầu tiên của huyện chuyên về dạy chữ nho.

         Trên địa bàn quận Cẩm Lệ nay, hưởng ứng phong trào Duy Tân còn có các trường làng mở ra nhằm bước đầu dạy chữ quốc ngữ cho nhân dân trong huyện, nhất là thanh niên. Trường làng Hoà An do cụ tú Xước, tú Điền, cụ khoá Ngoạn, thầy giáo Nguyễn Như Thức vận động thành lập. Tại xã Tân Hạnh, do nhu cầu con em nhân dân muốn học chữ nên ông Nguyễn Ngọc Cầu đã không ngại khó khăn bỏ công vận động thành lập được một trường làng, cùng với thầy giáo Phan Hạng vừa chiêu sinh vừa giảng dạy.

         Từ năm 1922, trường làng Lỗ Giáng được Đốc học Quảng Nam đề xuất thành trường công thuộc tổng An Lưu, đến năm 1926, trên toàn bộ vùng Hoà Vang thời ấy chỉ có 3 trường được Đốc học Quảng Nam đồng ý cho phát triển thành trường công lập, dạy theo chương trình của Pháp, đội ngũ quản lý nhà trường do Đốc học bổ nhiệm. Từ đây vai trò các nhà hão tâm, các nhà nho quan tâm đến tân học đã không còn đóng vai trò quyết định phương thức phát triển của các trường làng nữa. Thời kỳ này các trường làng nhìn chung đều giảng dạy lịch sử, địa lý địa phương, các môn thủ công đan tre, đan lát, nghề mộc,…

  1. Về hương ước, khoán ước

         Cũng như nhiều làng quê khác trên cả nước, làng Lỗ Giáng cũng lập bản hương ước riêng của làng. Bản hương ước này được lập vào đời vua Duy Tân (1907-1915), với mục đích giữ gìn an ninh, trật tự trong làng xóm và tạo mối đoàn kết, tương thân, tương trợ lẫn nhau. Hương ước có các khoản sau, đại ý như sau:

         – Tiết giảm chi tiêu, phù phiếm, xa xỉ trong việc cúng tế ma chay, cưới hỏi tiệc tùng.

         – Lập quỹ tuần sương để trợ giúp đội tuần sương có điều kiện tuần tra canh gác, bảo vệ mùa màng ngoài đồng, trật tự an ninh trong thôn xóm.

         – Lập quỹ công cho vay nhẹ lãi để nông dân có vốn sản xuất, giúp nhân dân khi bị thiên tai, hoả hoạn, hạn hán mất mùa đói kém xảy ra.

         – Nghiêm cấm trộm cắp, cờ bạc, rượu chè bê tha, cấm hút thuốc phiện, mại dâm, bài trừ mê tín dị đoan, đồng bóng, bói toán, đốt vàng mã.

         – Nhà có đám tang dân làng tự nguyện đến giúp đỡ mai táng mà không đòi hỏi ăn uống hay trả công.

         – Không được đánh lộn, la chửi, mọi xích mích trong cộng đồng dân cư do hương chức của làng giải quyết.

         – Không được thả trâu, bò đến ăn bờ ruộng lúa, hoa màu, không được bắt cá cạn, đơm đó bờ ruộng.

         – Không được trồng hoa màu trên mồ mả hoặc cuốc xén phần đất sát mồ mả để canh tác.

         – Khu dân cư nhà vườn ở gần nhau thì trồng cây cao không quá 3m, làm ảnh hưởng đến việc canh tác của phần đất nhà bên cạnh. Hương ước còn quy định cắm sào đúng ranh giới, hễ cây ngả về vườn khác phải chặt bỏ.

         – Cấm tảo hôn, cha mẹ, gia đình không được ép buộc con cháu lập gia đình trước tuổi thành niên. Hôn nhân giảm xuống còn 3 lễ thay vì 6 lễ như xưa.

         – Đường công hương (đường làng) được mở rộng cho tiện việc chuyên chở đi lại, không được tự tiện làm máng sòng tát nước, trổ nước ngang qua đường công hương làm xói lở gây trở ngại giao thông. Hàng năm, sau mùa mưa lụt hoặc gần Tết Nguyên đán, làng huy động dân cư tu bổ đường sá.

         – Tái thiết đình làng và nhà thờ tiền hiền.

  1. Về phân hóa cục bộ tín ngưỡng dân gian

         Mấy năm trở lại đây trong tín ngưỡng dân gian xuất hiện hiện tượng “cúng đường”, tức cúng tại các ngã ba, ngã tư đường phố. Hướng phát triển như thế trong tổ dân phố có hợp lý không (?) có hài hòa giữa lý luận và thực tiễn, giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng các thành tố của tín ngưỡng dân gian. Hiện nay tại các đô thị (lấy cứ liệu đô thị Đà nẵng, trong đó có Cẩm Lệ), các thành tố dân gian đang trong quá trình vỡ ra, những gì còn lưu giữ được đang vận động tổ chức cơ cấu lại các thành tố dân gian thì mới có thể là người đi cùng năm tháng đời người trong cộng đồng dân cư, nếu không sẽ trở thành người đưa đường trong tiến trình phát triển của cư dân đô thị. Một khi hiện tượng ấy xảy ra tại các đô thị, chắc chắn văn hóa văn nghệ dân gian không là sinh hoạt mang dấu ấn đặc trưng địa phương là bản sắc vùng miền hay khu vực nữa. Trong những năm trở lại đây, thành phố Đà Nẵng nói chung và quận Cẩm Lệ nói riêng tiếp nhận nguồn nhân lực từ các vùng nông thôn đổ về thành phố, trong hành trang của họ mang theo vào thành phố, có các thành tố văn hóa dân gian nông nghiệp, mà khi thực hành, một số có tác dụng níu kéo tiến trình đô thị, hình thành lối sống thị dân. Đây là giai đoạn dùng dằng, đã bắt đầu có phân hóa cục bộ các lễ tục dân gian, dễ nhìn thấy là tổ dân phố tách ra từ xóm trước đây để tổ chức các lễ cúng tại ngã ba, ngã tư đường vào dịp cuối năm, mà họ không tập trung về miếu xóm như trước. Đấy là sự phân hóa nhỏ lẻ hơn nữa để ứng dụng các thành tố trong tín ngưỡng dân gian vào cuộc sống. Đấy là vấn đề cần được quan tâm trong xây dựng và phát triển văn hóa nói chung và văn hóa dân gian nói riêng trên địa bàn thành phố và các quận huyện, trong đó quận Cẩm Lệ không là ngoại lệ. Các quận huyện cũng cần được nghiên cứu làm rõ sự thể hiện tín ngưỡng dân gian này của người dân tại các tổ dân phố theo hình thức phân hóa dần từng nhóm dân cư ?

  1. Về giao thoa văn hóa Việt – Chăm

         Xưa kia Cẩm Lệ là vùng đất của người Chăm, sau khi người Chăm rút dần vào Nam, người Việt từng bước tiến vào Nam khai phá đất đai, định cư sinh sống. Trước đó, thời nhà Hồ đã lần lượt có sự di dân vào Nam và từ năm 1471 việc đi vào phương Nam đã được chủ trương mở cõi của triều Lê khởi xướng, động viên.

         Trên địa bàn của quận Cẩm Lệ hiện nay, chúng ta đã phát hiện các di tích Chăm, chứng tỏ người Chăm có mặt tại vùng đất này từ rất sớm và hình thành nên một nền văn hóa rực rỡ trong lịch sử phát triển của họ. Đó là các di tích tại chùa An Sơn (phường Hòa An), tại đây còn có giếng nước, các trụ cột bằng đá sa thạch, đôn, bàn,… nay vẫn được nhà chùa tiếp tục sử dụng.

Dọc theo phía Đông chân núi Phước Tường vào đến khe Sứ thuộc địa bàn làng Đông Phước (phường Hòa Phát), có di tích của người Chăm, cư dân Việt tại đây gọi cây Quắn, có 4 trụ đá ong khắc đẽo vuông vắn được trồng xuống đất bền chặt. Các nhà khảo cổ chưa khảo sát kỹ di tích này. Họ đưa ra các ức đoán: có thể tại cây Quắn là nơi người Chăm dùng làm điểm khai thác đá, đẽo gọt, chuyên chở vào Phong Lệ, hoặc ra An Sơn xây dựng các đền tháp mà những trụ còn lại trong quá trình khai thác chưa sử dụng đến, rồi thôi, họ không chuyển đi nơi khác. Tại làng Đông Phước người dân cho rằng 4 trụ đá là dấu hiệu người Chăm đánh dấu nơi chôn kho báu. Người dân ức đoán rằng vào thời điểm nào đó nhất định trong ngày, khi mặt trời chiếu đỉnh các trụ đá ấy xuống đất đúng vào điểm nào, người ta đào nơi đó chắc có vàng Hời. Lại cũng có chuyện tương truyền rằng hễ ai leo lên ngồi hoặc đứng trên đầu các trụ đá ấy, bỗng nhiên dính cứng vào đá, không sao có thể bước xuống được. Người già trong làng phải có lễ xin lực lượng siêu nhiên nào đó giúp cho thì mới có thể.

         Rồi lại vào đến làng Phong Bắc 1 (phường Hòa Thọ Đông) mới đây đã phát lộ và khai quật di tích Chăm. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều hiện vật. Tại địa điểm khai quật được cho đây là khu đền tháp lớn nhất của người Chăm đã gặp từ trước tới nay.

         Và rồi xuống Hóa Khuê Ttrung ta còn gặp di tích giếng vuông của người Chăm tại Nghĩa Trủng Hòa Vang. V.v…

         Điều đó chứng tỏ rằng một vòng cung theo không gian văn hóa dân gian quận Cẩm Lệ hiện nay, người Chăm đã để lại dấu ấn văn hóa của họ, chứng tỏ rằng trong quá trình cộng cư đã có sự giao thoa tiếp biến văn hóa giữa người Việt với người Chăm tại vùng văn hóa dân gian này. Trong tín ngưỡng dân gian, người Việt đã tiếp nhận nữ thần Po Inư Nagar (Thiên Y A Na, Bà Chúa Ngọc) và đã phối thờ cúng kính theo cách của người Việt. Trong phát triển nông nghiệp, người Việt tại Cẩm Lệ đã làm theo cách của người Chăm trổ nước từ trong các con hố ra để tưới tiêu hoa màu. Đường dẫn nước từ cao xuống thấp chạy ngoằm ngoèo trên mặt đất gò là cách mà người Chăm đã thực hiện. Dân các làng Đông Phước, Nghi An (phường Hòa Phát), làng Đồng Môn, Thạch Nham (xã Hòa Nhơn, huyện Hòa Vang) cũng thực hiện cách như vậy lấy nước tưới tiêu cho hoa màu trên các miếng đất khô. V.v…

         Ngược lại người Chăm đã Việt hóa theo văn hóa người Việt, họ Ông tại làng Phong Lệ (Đà Ly, Đồng Bé) đã phát triển như người Việt, trở thành người Việt gốc Chăm. Hoặc họ Chế tại xã Hòa Phong, huyện Hòa Vang cũng đã tiếp biến thành người Việt gốc Chăm, văn hóa Việt được họ sử dụng như thói quen thường có hằng ngày, đến nay khó phân biệt đâu Chăm, đâu Việt.

         Sự giao thoa như vậy chắc chắn ảnh hưởng đến đời sống văn hóa văn nghệ dân gian Cẩm Lệ.

         * Trong phát triển kinh tế

         Vào khai phá đất đai Đàng Trong, người Cẩm Lệ cũng như người Việt đất Quảng đã không dùng cái cày chìa vôi của người Việt Bắc bộ nữa. Taị sao vậy? Đặt vấn đề để thấy rằng do đất đai, thổ nhưỡng nên phải sử dụng loại cày khác, thích hợp mới có thể khai thác đất đai, làm lợi cho nông nghiệp, đặc biệt trong giai đoạn đầu khi mới khai hoang vỡ hóa vùng đất phương Nam. Từ chiếc cày chìa vôi, người nhà nông của ta đã phối hợp, chọn lựa các bộ phận phù hợp với môi trường để chế tạo ra cái cày mang dáng vẻ riêng cuả vùng miền đất Quảng. Đây là sự giao thoa trong công cụ sản xuất nông nghiệp với người tiền trú. Vào đến vùng Quảng Nam, Đà Nẵng, cày người Việt dần biến đổi phù hợp với đất đai tại đây. Đế cày bằng, lướt được trên đất, trạnh cày cong úp đất được kín đều. Về kích thước có thể tham khảo cái cày đỏi bằng gỗ của ông Nguyễn Thiên Triết, 62 tuổi tại thôn Hòa Khương Tây, xã Hòa Nhơn, huyện Hòa Vang, TP. Đà Nẵng như sau:

– Chuôi cày đến cuối bắp cày  =  185cm

– Náng cày dài                         =    53cm

– Lỗ con ban cách náng cày    =   18cm

– Bắp cày                                 =  143cm

– Đỏi cày                                 =  135cm

– Lưỡi cày                               =    17cm

– Trạnh cày                             =    26cm

– Thân cày

– Cán cày

         Ảnh hưởng qua lại giữa cày người Việt miền Trung và người Chăm bản địa tại đây trong các thế kỷ đầu vào sản xuất nông nghiệp có thể thấy theo cách mô tả của Ngô Đức Thịnh: “Nếu chúng ta có dịp đi từ đồng bằng Bắc bộ tới Nghệ Tĩnh, chúng ta vẫn gặp chiếc cày chìa vôi quen thuộc,… Nhưng từ Quảng Bình trở vào, đặc biệt rõ ràng là từ Thừa Thiên chúng ta đã bắt đầu gặp dáng vẻ của chiếc cày khu V nổi tiếng. Ngày nay cày thuộc loại hình Chàm – khu V dùng phổ biến ở vùng khu V cũ cho tới Nam bộ, từ vùng đồng bằng tới cư dân làm ruộng ở Tây nguyên, như Việt, Chàm, Hrê,…”.

         Ảnh hưởng, giao thoa, tiếp biến nhau giữa cày người Việt miền Trung và người Chăm có thể thấy qua sự phát triển của cày. Để phù hợp với các loại đất, kể cả đất đồi gò, cái cày tùy từng vùng, đế cày mở rộng, dài đến 0,5 mét và được đẽo liền với thân cày tạo với đế cày một góc 450. Thân cày thường đẽo trực tiếp đến tay nắm, tức cán cày đến chuôi cày cong như dấu ngã (~) dựng đứng. Bắp cày nối trực tiếp đến hai thanh chuyền hai bên hông trâu đến ách cày. Như thế có thể thấy rằng, cày của người Chăm thể hiện rõ trong cái cày của người Việt miền Trung và cả Nam bộ. Điều này cả vùng Hòa Vang cũng trong trường hợp đó. Để cày và lật được đất trong khâu cày lật, úp đất, chiếc cày người Việt miền Trung phần diệp cày mở rộng, tạo nên tai cày nghiêng, giúp cho đất cày lên có thể lật úp lại được dễ dàng khi lưỡi cày đưa đất lên. [[57]] Qua đó, cho chúng ta ngày nay thấy được để cày xới đất đai, giúp người nhà nông lật đất cày sâu, gieo trồng thuận lợi, chiếc cày phải phù hợp, theo đó cày người Việt miền Trung ra đời có ảnh hưởng yếu tố của người Chăm bản địa. Người Việt vào miền Trung từ thời nhà Lý (muộn nhất cũng từ năm 1471), khai phá đất đai, hẳn đã sử dụng cày người Chăm để cày và sau đó xảy ra sự tiếp biến các yếu tố phù hợp bắt đầu được quan sát, mỗi thời kỳ một ít, mỗi vùng miền thay đổi một yếu tố, để hoàn chỉnh thành cái cày như hiện nay nhiều vùng nông nghiệp tại miền Trung đang sử dụng. Theo quá trình tiếp biến này, người vùng Cẩm Lệ không thể không ảnh hưởng đến các loại công cụ sản xuất nông nghiệp của mình.

         * Trong tín ngưỡng dân gian

         Ví như tục cúng đất tại làng Đông Phước, phường Hòa Phát, bài văn cúng đất được khấn hệ thống các thần, ma trong đó có các thần ma người Chăm, như sau:

         – Thần thổ địa của người Hoa: Đương kiểng thổ địa Phước đức chánh thần;

         – Thần đất trấn giữ ngũ/tứ phương viên trạch: Đông cương Giáp Ất Mộc Thanh đế thần quan; Tây phương Canh Tân Kim Bạch đế thần quan; Nam phương Bính Đinh Hoả Xích đế thần quan; Bắc phương thần quan; Trung ương Mồ Kỷ Thổ Hoàng đế thần quan [[58]].

         – Thần đất trấn giữ long mạch (theo phong thuỷ): Tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ, Châu tước, Châu trận Đằng xà Huyền võ thần quan.

         – Thần đất là Bà Chủ Ngung/Ngu trấn giữ viên trạch nhà đang ở: Chủ Ngung/Ngu Đào Lương Ban, Ma/Man nương Nguyễn Thị Thúc. (Danh xưng theo tên chữ là Thiên Y A Na, danh xưng theo dân gian là Diễn Ngọc Phi Chúa Ngọc [[59]], đây và vị nữ thần người Chăm mà người Việt miền Trung tiếp biến vào trong tín ngưỡng dân gian của mình).

         – Các vị là hữu danh vô vị, hữu vị vô danh, trong đó có các ma của người Chăm: Ngũ phương Thổ Công, Thổ Chủ, Thổ Phủ, Thổ Kỳ, Thổ Ôn, Thổ Quỷ, Thổ Khí, Thổ Lạc, Thổ Lồi, Thổ Mạnh, Thổ Trọng, Thổ Thúc, Thổ Quý, Thổ Hầu, Thổ Bá, Thổ Khảm, Thổ Khanh, Thổ Phụ, Thổ Mẫu, Thổ Tử, Thổ Tôn, Thổ Hôn, Thổ Tế [[60]] v.v…

         Tại các đình làng trên địa bàn quận cẩm Lệ, phía trước hậu tẩm người ta xây một mô hình trông ảnh hưởng linga và yoni của người Chăm và thường gọi là Bàn Hội đồng, trên đó hoặc không đặt gì cả như ở đình Bồ Bản, Dương Lâm và có thể đặt các đồ minh khí thờ tự như cách của người Việt.

         Nhìn lại hệ thống các giá trị tinh thần cốt lõi và đặc sắc của Cẩm Lệ (chưa phải là đầy đủ) song đó được thể hiện phong phú và đa dạng các di sản văn hóa vùng miền. Thế nên, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa chính là phương thức tốt nhất, lâu bền nhất để xây dựng, củng cố một nền tảng tinh thần xã hội vững chắc, tạo điểm tựa cho sự vận động và phát triển.

         Ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các di sản văn hóa (cả hai mặt) giữ vai trò là tài nguyên vô giá. Để phát triển kinh tế cũng phải dựa trên những di sản quý báu đó. Tuy nhiên bảo tồn di sản không hề đồng nghĩa với việc đóng khung trong di sản. Chủ trương kế thừa, giữ gìn và phát huy và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc, vùng miền không hề đồng nghĩa với bảo thủ, tự cô lập, đóng kín, khư khư bám lấy cái cũ, kiểu như “Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”. Giữ gìn và kế thừa truyền thống ngàn đời về lòng nhân ái, bao dung, trọng đạo lý, thương người như thể thương thân như “nhiễu điều phủ lấy giá gương..” như “bầu ơi thương lấy bí cùng…” như “công cha như núi Thái Sơn…” và kế thừa không chỉ nội dung mà còn cả hình thức trong tất cả các loại hình nghệ thuật: văn, thơ, nhạc, họa, kiến trúc, mỹ thuật, tuồng chèo,… đến các loại hình dân ca, dân vũ dân dã nơi làng quê xóm kiểng: bài chòi, các làn điệu dân ca, làn điệu đồng dao cho trẻ em,…chính đó đã làm cho dân tộc ta là một trong số các dân tộc có bản sắc văn hóa đặc trưng trên cơ sở sự riêng có của vùng miền. Bảo tồn, kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa trong tiến trình vận động và phát triển của văn hóa không phải những giá trị tạm thời nay còn mai một, song nó cũng không phải là cái không bao giờ thay đổi được và không cần sửa đổi. Ta có nếp sống tinh tế, kín đáo trong giao tiếp được giữ lại cho đời sau kế tục, cách ứng xử thông minh, ta giản dị trong lối sống, thanh thoát mà gợi cảm trong chiếc áo dài phụ nữ Việt Nam… những nét đẹp bản chất của truyền thống ấy phải được kế thừa. Và, tiến trình phát triển văn hóa, kế thừa, đổi mới là quy luật khách quan để tồn tại của dân tộc Việt Nam ta. Cẩm Lệ cũng không ngoài nhận định đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ… Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý. Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm.

         Tôi nghĩ, quận Cẩm Lệ trong tiến trình phát triển tiến về phía trước giàu đẹp hơn, hẳn không ngoài mục tiêu xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trên cơ sở thực tiễn của quận Cẩm Lệ./.

16/4/2015

1 Hoà An: một làng thuộc xã Hoà Phát nay thuộc Phường Hoà An, quận Cẩm Lệ, Tp Đà Nẵng.

[1] Chợ huyện: tức Chợ Mới (chợ Hoà Thuận) xưa kia chợ Hòa Thuận tục gọi là chợ huyện (thuộc huyện Hoà Vang).

[2] Chợ Cồn: tên một chợ, xưa thuộc huyện Hoà Vang; nay thuộc quận Hải Châu, Tp Đà Nẵng. Cũng có xóm Tân An tại Khuê Trung – Hòa Cường

[3] Trung Lương: thôn Trung Lương trước thuộc xã Hòa Xuân, 2005 đến nay là khu dân cư thuộc phường Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng.

[4] Cồn Dầu: tên làng thuộc xã Hoà Xuân, huyện Hoà Vang, 2005 đến nay là khu dân cư thuộc phường Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng.

[5] Trận mù u: Tương truyền năm 1858, khi quân Pháp tấn công Đà Nẵng, dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Tri Phương, Ông Ích Khiêm đã dùng trái mù u rải trên mặt đường tại phòng tuyến Liên Trì, giặc Pháp đi giày đinh dẫm phải ngã lăn lóc. Là bài thơ dài, có khổ đã được dân gian hóa.

[6] Tân An: thuộc làng An Hải, nay  quận Sơn Trà,  Tp Đà Nẵng. Cũng có xã/làng Tân An trước thuộc xã Hòa Nhơn, Hòa Vang, nay là khu dân cư thuộc phường An Khê,  quận Thanh Khê, Tp ĐN.

[7] Tần, tảo: hai loại rau xanh sống ở nước. Ở đây chỉ sự cần cù làm ăn, buôn bán.

[8] Trong dịp hát đối đáp nhau chàng trai lên Lương, cô gái tên Khai, hát tại Đông Phước xã.

[9] Thằng Xứng: tức ông Châu Xứng, người làng Đông Phước, xã Hòa Phát, huyện Hòa Vang (nay là phường Hòa Phát, quận Cẩm Lệ, ĐN)

[10] Ghi tại làng Đông Phước, tương truyền do Châu Xứng đọc.

[11] Xỉ con cò: vận dụng phương thức nói lái trong tiếng Việt.

[12] Quào: đọc chệch âm của cái cào cỏ, (phương ngữ gọi bù quào, bù cào).

[13] Điểu: giống chim điểu.

[14] Cặt: vòi nhuỵ bông bí.

[15] Bài do ông Trọng Hào, còn gọi là Trọng Quào hát với bà Hoạch. Chim thường cắn bông bí là chim chắt hoạch.

[16] Giống chi: (phương ngữ): Bao nhiêu lắm. Bao lăm lắm. Có chi đâu.

[17] Gia bần trí đoản: nghĩa đen là nhà nghèo trí ngắn.

[18] Bài do ông Phó Tân hát trong một lần hát đối đáp tại Hố Quê (nay là phường Khuê Trung, quận Cẩm Lệ, Tp Đà Nẵng).

[19] Hà Khê: Xuân Hà, Thanh Khê nay thuộc quận Thanh Khê, Tp Đà Nẵng.

[20] Miếu Bông: nay thuộc xã Hoà Phước, huyện Hoà Vang, Tp Đà Nẵng.

[21] Hói Dừa: tại làng Bình Thái, phía tây bãi La Hường thuộc phường Hòa Thọ Đông, quận Cẩm Lệ, giáp làng Phong Bắc, nơi nước từ mương Hương Mãng đổ ra sông Cẩm Lệ, trước khi ra sông nước tụ lại tại hói Dừa. Hói Dừa có thể đọc trại từ Dứa, bởi chung quanh hói Dừa có rất nhiều cây dứa mọc thành bụi, lùm mà không có dừa mọc tại đây.

[22]  Hố Quê: hay Quá Quê thuộc làng Hóa Khuê Trung Tây, nay là phường Khuê Trung, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.

[23]  Nghi An: (xã) làng, là thôn Nghi An thuộc xã Hòa Phát huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng; nay là khu dân cư Nghi An, phường Hòa Phát, quận Cẩm Lệ.

[24] Hàn: Hàn, Thái Phiên, Đà Nẵng. Chỉ Tp Đà Nẵng ngày nay.

[25] Tây béo: sân bay Đà Nẵng ngày nay.

[26] Phước Tường: thôn Phước Tường xã Hòa Phát, huyện Hòa Vang, Tp ĐN. Trước 1945 một phần thuộc xã Hòa Nhơn, Hòa Vang.

[27] Ảnh: chỉ tay chủ đồn điền Pháp.

[28] Đóng góp cho các ông có chức sắc trong làng.

[29] Vùng đất mà kho bạc của Pháp đã mua rồi.

[30] Sỹ,Lê: tên các con hố ở núi Phước Tường.

[31] Bộ biên: trích lục, giấy tờ lý lịch đất.

[32] Lý trưởng, hào trưởng trong làng.

[33] Chững: chừng ấy (đó).

[34] Hồ sen, nay  thuộc thôn Nghi An (gần nhà thờ Thái Phiên) xã Hòa Phát, huyện Hòa Vang.

[35] Dinh Ông: nơi thờ Thành hoàng bổn xứ làng Ngi An. Dinh phối thờ cọp/hổ.

[36] Tộc Thái, (tộc của Thái Phiên, Thái Thị Bôi) ở thôn Nghi An, xã Hòa Phát.

[37]  Tức bao quanh.

[38] Thừa dụng bữa nghỉ ngày chủ nhật không có quan nào can thiệp.

[39] Đào hục: đào hố, đào lỗ.

[40] Dây xanh: một loại dây leo rất dẻo dùng làm dây cột, quấn rất chặc. Người dân thường dùng đi củi, đi tranh, đi bổi, đi lá… trên núi Phước Tường, dùng dây xanh cột, bó lại.

[41]: cảnh sát.

[42] Sử đầu: vẻ chuyện, sử chuyện ra.(phương ngôn).

[43] Cấm: quãng đất rộng dưới chân đồi, gò.

[44] Tên đất và người trong bài vè đều ở làng Nghi An, Hòa Phát, Hòa Vang.

[45] Nghi An: làng, nay là thôn Nghi An ; Đông Phước: làng, nay là thôn Đông Phước, hai thôn trên thuộc xã Hòa Phát, huyện Hòa Vang, Tp Đà Nẵng.

[46] Thị phi: phải trái, không biết chuyện đứng sai.

[47] Ninh thọ tử bất ninh thọ nhục: thà chịu chết chứ khôngchịu nhục.

[48] Ô danh nan thục: thục: chuôc lại. Ý rằng  danh tánh bị làm xấu đi thì khó mà chuộc được, rửa được.

[49] Xưa kia và ngày nay quan hệ hôn nhân giữa các làng Đông Phước, Nghi An, Hố Quê là bằng chứng cho thấy trong quá khứ thanh niên nam nữ có quan hệ quen biết nhau.

[50] Giai thoại: theo Từ điển văn học, NXB Thế giới, 2004, giai thoại là một thể loại chuyện kể truyền miệng, lưu truyền chủ yếu trong giới nhà văn và lớp công chúng ưa thích thơ văn, nhất là những người có hiểu biết Hán học và văn chương chữ Hán. Thuật ngữ giai thoại được mượn từ Trung Hoa (thoại: truyện kể; giai: hay, đẹp, thú vị). Mỗi giai thoại là một truyện kể ngắn gọn, lý thú, xoay quanh những nhân vật có thực, thường là những danh nhân… Giai thoại văn học thường không phân giới rõ rệt với truyền thuyết, truyền kỳ; có những mảng giai thoại xuất hiện thời kỳ sau lại gần với tiếu lâm. Tuy vậy giai thoại vẫn mang tính độc lập như một thể loại độc đáo; nó thuộc về văn chương bác học, gắn với sinh hoạt văn học thành văn, nhưng lại tồn tại dưới dạng truyền miệng, tức là dạng thức tồn tại của các truyện kể dân gian.

[51] Trước kia Phong Lệ là xã hiệu rộng lớn bao gồm cả một vùng đất từ Đà Sơn vào đến Trà Kiệu và từ giáp Non Nước lên đến chân núi Chúa. Xem: Địa chí văn hóa dân gian làng Phong Lệ, Võ Văn Hòe, NXB Thanh Niên, 2011. Ở đây chúng tôi nói Phong Lệ, chủ yếu là Phong Lệ Bắc sau khi đã tách Phong Lệ thành hai làng vào thời Thành Thái.

[52] 1884 – 1932.

[53] 1890 – 1908. Chí sĩ Lê Bá Trinh, người làng Hải Châu là con rể của Ông Tán Thiện (Ông Ích Thiện), là anh rể Ông Ích Đường.

[54] Tham khảo bài Lễ hội hạ điền làng Lỗ Giáng, Hồ Tấn Tuấn.

[55] Các sách “Thủy kinh chú”, “Giao Châu di vật chí” viết rằng “Người Việt thạo thủy chiến, giỏi dùng thuyền”, song chưa có sách nào ghi tục đua thuyền ngày Tết của nhân dân Việt Nam có từ bao giờ. Tác phẩm đề cập đến việc đua thuyền ở Việt Nam sớm nhất là cuốn “Đại Việt sử ký toàn thư”, sách nầy chép : Ngày 15 tháng 7 năm Ất dậu (985), nhân sinh nhật của vua Lê Đại Hành, nhà vua sai người làm thuyền, bên trên là núi Giả Sơn rồi tổ chức lễ đua thuyền trên sông Hoàng Long, thuộc huyện Gia Viễn, Ninh Bình. Kể từ đó đua thuyền trở thành lệ hằng năm.

[56] Theo Hoà Vang phổ chí, Tú tài Trần Nhật Tỉnh tăng bổ theo Di thảo của Mảnh Trai, Trần Hy Tăng tiên sinh. Cháu ngọai là Đỗ Thúc Trầm sao lại. Người dịch : Hanh Phủ Nguyễn Đình Thảng.

[57] Theo Ngô Đức Thịnh trong Dụng cụ nông nghiệp cổ truyền Việt Nam, cày Chàm – khu V, về phương diện cấu trúc cày khu V giống với cày Trung Quốc: chân đế phát triển, náng cày nằm gần phần lưỡi. Tuy nhiên cày Chàm –  khu V khác với cày Trung Quốc là diệp cày phát triển thành phần tai cày liền với đế cày, bắp cày dài, đóng thảng vào ách cày hai trâu” Những đặc điểm này của  cày Chàm – khu V lại gần với cày Khơme , Xiêm,…cày Chàm – khu V không phải là sáng tạo của người Việt mà là sáng tạo của người Chàm, người Việt sau thế kỷ thứ X, di cư vào phía Nam đã tiếp nhận cày Chàm, phù hợp với điều kiện đất đai khu vực ấy.

[58] Cũng có thể là các vị thần trông coi tám hướng người Chăm thể hiện tám Dikpala, tức Hộ thế bát phương trong thần thoại Ấn Độ mà người Chăm đã tiếp biến, đến lượt người Việt miền Trung tiếp tục giao thoa và đặt tên theo danh xưng của người Việt. Các vị thần đó là : Yama, thần của sự công bằng, của thế giới người chết trông coi phương nam ; Nirrti, vị thần của sự khổ ải, bệnh hoạn, chết chóc, vị thần này trấn giữ hướng tây nam; vị thần Varuna, thần của sự hiểu biết trấn giữ hướng tây; vị thần Vayu là thần gió, thần của thần Gandharva, vị này trấn giữ hướng tây bắc; thần Kubera là thần tài lộc trấn giữ chính hướng bắc; thần Isana, thần tiêu biểu của sự tinh khiết, vị trấn giữ hướng đông bắc; Indra, thần biểu hiện cho quyền uy, sự cam đảm, vị này trấn giữ hướng đông; thần Agni, thần của sự hiến tế, trấn giữ hướng đông nam.

[59] Chúa Ngọc: có lẽ các vua triều Nguyễn sức cho dân phía Nam đèo Hải Vân trở vào đến Bình Thuận thờ cúng vị thần này, xem là vị thần chúa tể phương Nam mà nhà Nguyễn lập điện thờ tại núi Ngọc Trản (điện Hòn Chén), tỉnh Thừa Thiên nên dân gian gọi chệch thành Bà Chúa Ngọc? Khảo tra thêm: Thiên Y A Na/Mẹ Xứ Sở/Bà Chúa Ngọc được tiếp biến vào hệ thống thần linh người Việt thời vua Lê Thánh Tông mở đất. Trong sách Việt điện u linh (1329), truyện Ứng thiên hoá dục Nguyên trung Hậu thổ địa kỳ nguyên quân chép về vị nữ thần được cho là “tinh của đại địa Nam quốc”, khi chết nhập vào cây ở chốn mây nước, phù trợ vua Lê Thánh Tông trong việc bình Chiêm (1069). Sau khi thắng trận được nhà vua rước thần về thờ tại làng An Lãng, kinh đô Thăng Long. Đây là sự tiếp biến thần Chăm vào hệ thống thần linh người Việt có niên đại sớm nhất.

[60] Bài văn do ông Võ Văn Xuân, tại làng Đông Phước, xã Hoà Phát, huyện Hoà Vang, tỉnh Quảng Nam lưu giữ và cung cấp.